Nghiên cứu chứng cứ, đánh giá chứng cứ theo quy định tại Điều 93 và Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện đầy đủ, chính xác, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định tính hợp pháp, tính liên quan có ý nghĩa rất quan trọng. Bài viết về chứng cứ trong tố tụng dân sự sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về ý nghĩa của chứng cứ trong lĩnh vực dân sự.
Tố tụng dân sự là gì?
Tố tụng dân sự là tổng thể hoạt động nhằm giải quyết các vụ việc dân sự tuân thủ các quy định pháp luật.
Chứng cứ trong tố tụng dân sự là gì?
Nghiên cứu chứng cứ, đánh giá chứng cứ theo quy định tại Điều 93 và Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện đầy đủ, chính xác, sự liên quan giữa các chứng cứ và khảng định tính hợp pháp, tính liên quan, giá trị chứng minh của từng chứng cứ, có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi lẽ, tất cả các hoạt động tố tụng dân sự đều phải đi đến kết luận về giá trị chứng minh của chứng cứ, trên cơ sở đó mới có thể kết luận về vụ án, vụ việc dân sự.
Theo Từ điển tiếng Việt, của Nhà xuất bản Khoa học xã hội, xuất bản năm 1988 thì chứng cứ là “cái cụ thể (như lời nói hoặc việc làm, vật làm chứng, tài liệu, …) tỏ rõ điều gì đó là có thật”.
Như vậy, có thể hiểu chứng cứ (theo một nghĩa chung nhất) là những gì có thật, phản ánh sự thật khách quan về một vụ việc và được thu thập theo trình tự nhất định do pháp luật quy định.
Chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, hành chính hay trong tố tụng dân sự đều có những điểm chung và vừa có tính lý luận sâu sắc, vừa có tính thực tiễn rất cao. Nó là cơ sở quan trọng để xác định sự thật khách quan của vụ án.
Hình thức tồn tại của chứng cứ
Bất kỳ vụ việc dân sự nào cũng xuất hiện, diễn ra trong thế giới khách quan, do đó, những tình tiết, sự kiện, diễn biến của sự việc dân sự đều tồn tại trong thế giới vật chất, nó đều để lại các “dấu vết” trong thế giới vật chất với muôn hình, muôn vẻ, nhưng khái quát lại có hai dạng dưới đây:
+ Các dấu vết phi vật chất, liên quan đến các tình tiết của vụ án được phản ánh vào ý thức của con người. Thông qua các biện pháp, các hình thức thu thập chứng cứ để “vật chất” hóa các dấu vết đó dưới những hình thức nhất định; ví dụ: việc lập biên bản ghi lời khai của nhân chứng biết sự việc, chứng kiến sự việc…
+ Các dấu vết vật chất, ví dụ như vật chứng, các giấy biên nhận nợ, hợp đồng vay tài sản, hợp đồng tín dụng trong các vụ án tranh chấp đòi nợ…
Các “dấu vết” được coi là chứng cứ của vụ án chính là sự phản ánh các mặt riêng lẻ của sự thật về vụ án được thu thập theo một trình tự, thủ tục do luật định là căn cứ cho việc xác định sự thật của vụ án, nhằm giải quyết đúng đắn vụ, việc dân sự.
03 đặc điểm của chứng cứ trong tố tụng dân sự
Chứng cứ có 03 đặc điểm sau:
– Chứng cứ là những gì có thật;
– Được đương sự, cá nhân và cơ quan, tổ chức khác giao nộp, Tòa án thu thập theo trình tự thủ tục do BLTTDS quy định;
– Được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không.
03 Đặc tính của chứng cứ và ý nghĩa của chứng cứ trong tố tụng dân sự
Một là, tính khách quan của chứng cứ:
Khi một chứng cứ đã xuất hiện nó sẽ tồn tại trong thế giới vật chất, đó cũng là thê giới khách quan, độc lập với ý thức của con người. Tuy nhiên, cần tránh nhầm lẫn giữa tính khách quan của chứng cứ với sự hình thành nên chứng cứ. Thông thường một sự vật, tài liệu… được hình thành từ ý muốn chủ quan của con người, ví dụ như di chúc, các nội dung của bản di chúc do chủ sỏ hữu tài sản đó viết ra, quá trình viết di chúc là quá trình hình thành của một văn bản nó thể hiện ý chí, mong muốn chủ quan của chính chủ thể đó, mà sau này nếu có việc khởi kiện chia thừa kế thì bản di chúc Sẽ trở thành một nguồn chứng cớ.
Khi bản di chúc đó ra đời và được thu thập theo đúng quy định Bộ luật tô’ tụng dân sự, thì những nội dung thể hiện ý chí của chủ sỏ hữu về định đoạt tài sản sẽ là chứng cứ của vụ án tranh chấp, yêu cầu chia thừa kế theo di chúc, và chứng cứ này tồn tại một cách khách quan.
Do đó, con người chỉ có thể nhận thức về nó, thu thập, nghiên cứu, đánh giá nó, chứ không thể tạo ra chứng cứ theo đúng ý nghĩa, bản chất của chứng cứ. Mọi hành vi sửa chữa, thay đổi, tạo ra cái gọi là chứng cứ, thì đó chắc chắn không phải là chứng cứ của vụ án, đó là giả chứng cứ. Vì vậy, khi thu thập, nghiên cứu về chứng cứ phải rất chú ý đến tính khách quan của chứng cứ, phải xem xét nội dung các tài liệu có phải xác thực hay không, nó xuất hiện khi nào? Ai là người viết, ai là người quản lý, lưu giữ hay phát hiện ra nó; chứng cứ đó có phản ánh đúng bản chất của sự việc hay không… để xem xét, đánh giá nó như nó vốn có.
Hai là, tính liên quan của chứng cứ:
Khi có việc khởi kiện hoặc khi có yêu cầu Tòa án giải quyết một vụ việc, dân sự thì đương sự, nhân chứng, các cơ quan tổ chức… sẽ cung cấp cho chúng ta rất nhiều thông tin, tài liệu nhưng chỉ những thông tin, tài liệu nào có liên quan đến vụ việc dân sự mà Tòa án đang giải quyết mới cần thu thập để sử dụng làm chứng cứ của vụ việc dân sự đó. Sự liên quan này có thể là trực tiếp, rất dễ nhận ra, nó giúp chúng ta nhận thức ra ngay bản chất, sự thật khách quan của vụ việc dân sự đó.
Ví dụ 1: Trong vụ án đòi nợ, thì giấy xác nhận số tiền còn nợ do chính con nợ viết ra, bản hợp đồng thuê tài sản trong vụ án tranh chấp quyền nghĩa vụ các bên trong hợp đồng thuê tài sản; bản di chúc trong vụ án kiện yêu cầu chia thừa kế theo di chúc… là những tài liệu, chứng cứ liên quan trực tiếp đến sự kiện cần chứng minh trong vụ án, đồng thời nó sẽ là chứng cứ trực tiếp.
Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều khi những tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án chỉ là gián tiếp phải xâu chuỗi, xem xét, đánh giá nó trong mối quan hệ với các tài liệu, tình tiết khác, những chứng cứ khác mới thấy được giá trị chứng minh của nó.
Ví dụ 2: A kiện đòi nỢ B, A trình bày, sáng ngày 10-01-2018, có cho B vay 10.000.000 đồng, đến hạn B không trả. B khai không hề vay tiền của A và còn nói thêm cả ngày hôm 10-01-2018 B ngồi chơi bài cùng với N, p, Q.
Tòa án tiến hành lấy lời khai của nhân chứng, khi được hỏi N, p, Q khai ngày hôm đó, B không chơi bài với họ. Nhân chứng X khai ngày 10/1/2018, B có đến nhà chơi và nói đang thiếu tiền mua máy xay sát, X có cho B biết là A đang có tiền nhàn rỗi, đến đó hỏi vay xem. Nhân chứng H khai có nhìn thấy B đến nhà A ngày 10-01-2018, còn đến để làm gì H không biết nhưng khi B từ nhà A ra có thấy B cầm một tập tiền…
Như vậy, nội dung lời khai của các nhân chứng: N, p, Q, của X, của H… là những tài liệu, chứng cứ có liên quan gián tiếp đến vụ kiện đòi nợ, nếu để độc lập, tách riêng giữa các lời khai nói trên vói nhau và các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án thì các lời khai đó không có ý nghĩa, không nói lên được điều gì đối với vụ án đó. Nhưng nếu xem xét trong mối liên hệ giữa các lời khai trên với nhau sẽ cho thấy những thông tin rất có ý nghĩa và khi xem xét nó với các tài liệu chứng cứ khác của vụ án, sẽ giúp chúng ta thấy rõ nét hơn sự việc.
Ba là, tính hợp pháp của chứng cứ:
Các tài liệu, vật chứng… muốn trở thành chứng cứ phải được thu thập, bảo quản theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định thì mới có giá trị pháp lý.
Ví dụ 3: Trong một biên bản lấy lời khai của đương sự A, có nội dung chính là đương sự A thừa nhận có nợ B số tiền như B khởi kiện. Biên bản này không có chữ ký của A, không có chữ ký của Thẩm phán lấy lời khai, biên bản không thể hiện thời gian, địa điểm lấy lời khai, như vậy biên bản lấy lời khai này đã không làm đúng quy định của pháp luật, nên các nội dung trong đó không được coi là chứng cứ.
Ví dụ 4: Một biên bản ghi lời khai đã thực hiện đúng các yêu cầu về hình thức của một biên bản, nhưng A đưa ra được tài liệu (ví dụ bản ghi âm buổi lấy lời khai, có xác nhận xuất xứ của tài liệu này) và chứng minh lời thừa nhận của A trong biên bản lấy lời khai là do bị luật sư uy hiếp bằng vũ lực, sự đe dọa rất mạnh mẽ, A phải khai theo ý của luật sư, nên không đúng sự thật.
Trong trường hợp này, lời thừa nhận của A trong biên bản nói trên không có giá trị chứng minh, không là chứng cứ của vụ án, vì tài liệu đó không hợp pháp.
Ví dụ 5: Một bản di chúc, bản hợp đồng photocopy nhưng không có công chứng, chứng thực là đã sao y bản chính; không có bản chính để xuất trình cho Tòa án, trong khi các đương sự không thừa nhận nội dung, chữ ký… trong các tài liệu photocopy này thì tài liệu đó cũng không có giá trị chứng minh do không bảo đảm tính hợp pháp.
Như vậy, một tài liệu chỉ được coi là chứng cứ khi nó bảo đảm cả ba đặc tính nêu trên thì mới có giá trị chứng minh, mới là căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại để được giải đáp và tư vấn tốt nhất.