Hợp đồng giả cách

Hợp đồng giả cách

Hợp đồng giả cách là gì? Pháp luật quy định như thế nào về loại hợp đồng này? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau nhé!

Hợp đồng giả cách là gì?

Hợp đồng giả cách là một khái niệm được đưa ra để chỉ những trường hợp khi các bên tham gia hợp đồng tạo ra một giao dịch dân sự khác nhằm che giấu thực chất của giao dịch chính. Tức là, trong hợp đồng giả cách, các bên tham gia sẽ tạo ra một giao dịch khác, không phải là giao dịch chính, nhằm che giấu thực chất của giao dịch đó.

Pháp luật Việt Nam hiện chưa có quy định chặt chẽ về hợp đồng giả cách, tuy nhiên, cụm từ này đang trở nên phổ biến trên các trang tư vấn pháp luật và gây tranh cãi đối với các bên tham gia hợp đồng. Hợp đồng giả cách được coi là một biến tướng của hợp đồng mua bán tài sản, vì trong đó cũng chứa đựng việc chuyển quyền sở hữu tài sản và trả tiền cho bên bán như trong hợp đồng mua bán tài sản. Theo Điều 430 BLDS 2015, hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, trong đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán. Tuy nhiên, trong hợp đồng giả cách, nội dung và mục đích của giao dịch không được thể hiện theo hình thức của hợp đồng mà lại bị cố tình che giấu bởi một giao dịch khác được ngụy tạo.

Hợp đồng giả cách là một dạng hợp đồng rất phổ biến trong các giao dịch mua bán, vay vốn hoặc chuyển nhượng tài sản. Tuy nhiên, hợp đồng này lại có tính chất rất đặc biệt và có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng đối với các bên tham gia. Về cơ bản, hợp đồng giả cách được sử dụng để che giấu một giao dịch dân sự khác, thông qua việc xác lập một giao dịch dân sự không có thật thể. Những tài sản tham gia vào hợp đồng giả cách thường có giá trị lớn, chủ yếu là bất động sản.

Để có hiệu lực, người cần tiền đem bất động sản tới cơ quan nhà nước làm thủ tục chuyển nhượng cho bên còn lại. Theo đó, người đem chuyển nhượng sẽ được vay một khoảng tiền nhất định, việc vay vốn này mới là mục đích chính của giao dịch dân sự. Trong một khoảng thời gian thỏa thuận, nếu không trả đủ nợ, thì tài sản chuyển nhượng đó sẽ thuộc về bên kia.

Tuy nhiên, hợp đồng giả cách thường được lợi dụng để thực hiện các hoạt động lừa đảo. Những đối tượng lừa đảo thường sử dụng hợp đồng giả cách làm công cụ để chiếm đoạt tài sản của người bị lừa, đặc biệt là đất đai và bất động sản. Người bị lợi dụng thường là những đối tượng đang rất cần tiền, đang muốn thực hiện giao dịch bán tài sản, vay mượn, thế chấp nhưng không am hiểu pháp luật, cả tin dẫn tới bị lừa.

Vấn đề lớn đối với các bên tham gia hợp đồng giả cách là việc khó đòi lại công bằng cho bên thị thiệt thòi. Những trường hợp lừa đảo này thường đã có sự chuẩn bị bằng những thủ đoạn tinh vi, né luật để tránh các vấn đề pháp lý sau này.

Để xác định xem đâu là giao dịch thật và đâu là giao dịch giả, cần xem xét mối quan hệ giao dịch và ý chí thực sự của các bên tham gia hợp đồng. Việc này không hề đơn giản và đòi hỏi phải dựa vào nhiều yếu tố khác nhau như nội dung của hợp đồng, mục đích của các bên, cũng như hoàn cảnh và quan hệ giữa các bên. Do đó, việc xử lý các tranh chấp liên quan đến hợp đồng giả cách là khá phức tạp và cần phải được thực hiện bởi những chuyên gia pháp lý có kinh nghiệm.

Rủi ro đối với các bên khi tham gia hợp đồng giả cách

Thông thường một hợp đồng giả cách phát sinh từ nhu cầu vay tiền. Có rất nhiều trường hợp vì cần tiền gấp mà người ta chấp nhận phát sinh một hợp đồng giả cách với bên cho vay. Hợp đồng giả cách này thường là hợp đồng mua bán các tài sản lớn như: bất động sản.

Một trong những vấn đề khiến cho việc giải quyết các tranh chấp về hợp đồng giả cách trở nên phức tạp là do tất cả các hợp đồng đều phải qua công chứng hợp pháp. Điều này làm cho việc xử lý các vụ việc trở nên khó khăn hơn, bởi vì người vay vay tiền thông qua hợp đồng giả cách đã được ký kết. Quá trình kiện tụng kéo dài gây tốn kém cũng như mệt mỏi, số tiền vay ngày càng lớn đó có lãi. Khi đòi lại được quyền lợi, người vay cũng phải bán tài sản để trả nợ. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng có thể đòi lại được quyền lợi. Trong một số trường hợp, người cho vay có thể lợi dụng tình trạng cần tiền gấp của người vay để lừa đảo. Những đối tượng cho vay này thường yêu cầu bảo đảm khoản vay bằng việc giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhà ở có chữ kí và công chứng với giá trị lớn hơn so với tài sản cho vay. Một khi bên vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ hay nghĩa vụ trả tiền lãi thì người đi vay có thể bị mất tài sản của mình.

Không những thế, hợp đồng giả cách còn có thể xuất hiện bởi hai bên mua bán tài sản. Điều này có nghĩa là hai bên thoả thuận phát sinh một hợp đồng giả cách là: tặng cho tài sản, nhưng bản chất giao dịch giữa các bên là: mua bán tài sản. Các bên thường làm như vậy với mục đích trốn tránh nghĩa vụ với nhà nước. Tuy nhiên, hợp đồng giả cách này mang lại rất nhiều rủi ro cho người bán.

Lý do là bởi các bên hình thành một hợp đồng giả cách trên danh nghĩa là hợp đồng tặng cho, được công chứng, chứng thực hợp pháp. Trường hợp này rất dễ có thể khiến cho người bán mất nhà mà không được trả bất kì một khoản tiền nào. 

Các quy định pháp luật liên quan đến hợp đồng giả cách

Như đã nói ở trên, pháp luật Việt Nam không có thuật ngữ “hợp đồng giả cách” nên việc không có bất kì quy định nào dành riêng cho hợp đồng giả cách cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy, hợp đồng giả cách vẫn được điều chỉnh bởi những quy định điều chỉnh giao dịch dân sự nói chung. 

Thứ nhất, hợp đồng giả cách là một loại giao dịch giả tạo và được quy định tại Điều 124 BLDS năm 2015 như sau:

Điều 124: Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.

Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.

Như vậy, khi các bên tham gia vào giao dịch dân sự lại có ý định giả tạo để che giấu một giao dịch khác hoặc trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Trong trường hợp này, pháp luật đã có quy định rõ ràng về hiệu lực của các giao dịch dân sự giả tạo.

Cụ thể, khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo sẽ vô hiệu, còn giao dịch thực chất vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp vô hiệu theo quy định khác của pháp luật. Điều này có nghĩa là giao dịch được thiết lập với mục đích giả tạo sẽ không có giá trị pháp lý và không tác động đến quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào giao dịch đó. Đồng thời, để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba thì trong trường hợp các bên phát sinh giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó sẽ vô hiệu.

Thứ hai, hậu quả pháp lý của hợp đồng giả cách được quy định tại Điều 131 BLDS năm 2015 như sau:

Điều 131: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.

Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.

Hợp đồng giả cách
hợp đồng giả cách

Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.

Như vậy, mặc dù thuật ngữ “hợp đồng giả cách” không được quy định trong pháp luật Việt Nam, nhưng pháp luật vẫn luôn tồn tại những quy định nhằm điều chỉnh hiệu lực và giải quyết các hậu quả pháp lý của loại hợp đồng này.

Thời hiệu yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với hợp đồng giả cách là bao lâu?

Theo Điều 132 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu như sau:

Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu

Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại các Điều 125, 126, 127, 128 và 129 của Bộ luật này là 02 năm, kể từ ngày:

a) Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch;

b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối;

c) Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;

d) Người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch;

đ) Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức.

Hết thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực.

Đối với giao dịch dân sự quy định tại Điều 123 và Điều 124 của Bộ luật này thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.

Theo đó thời hiệu yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với hợp đồng giả cách là không giới hạn.

Trên đây là tất cả thông tin được cung cấp bởi công ty luật Trần và Liên Danh về Hợp đồng giả cách. Nếu quý vị có bất kỳ câu hỏi nào hoặc cần hỗ trợ về các vấn đề pháp lý khác, xin vui lòng liên hệ với chúng tôi qua bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua số hotline. Chúng tôi sẽ nhanh chóng hỗ trợ và trả lời mọi thắc mắc của quý vị.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139