Với sự phát triển của xã hội ngày nay thì khái niệm kiểm toán không còn quá xa lạ với mọi người. Đây là ngành khá hot và được rất nhiều bạn trẻ quan tâm hiện nay đặc biệt là những bạn có niềm đam mê với các con số và đang theo đuổi ngành Kiểm toán. Bài viết này sẽ giúp các bạn biết được Kiểm toán là gì? Chức năng và công việc của kiểm toán viên – chủ thể của kiểm toán nội bộ một cách chi tiết nhé!
Câu hỏi thường gặp về Kiểm toán báo cáo tài chính
Cuộc kiểm toán báo cáo tài chính là gì?
Nguyên tắc của kiểm toán báo cáo tài chính là gì?
Các quy định kiểm toán báo cáo tài chính là gì?
Lợi ích của kiểm toán Báo cáo tài chính độc lập là gì?
Phạm vi kiểm toán báo cáo tài chính?
Khi nào cần kiểm toán báo cáo tài chính?
Công ty nào phải kiểm toán báo cáo tài chính?
Cơ sở pháp lý quy định các doanh nghiệp nằm trong diện bắt buộc phải kiểm toán báo cáo tài chính là Nghị định số 17/2012/NĐ-CP về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Kiểm Toán Độc Lập ban hành ngày 13 tháng 03 năm 2012.
Thông tư 40/2020/TT-BTC về hướng dẫn chế độ báo cáo trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán độc lập tại Nghị định 174/2016/NĐ-CP hướng dẫn Luật kế toán và Nghị định 17/2012/NĐ-CP hướng dẫn Luật kiểm toán độc lập.
Theo đó, các doanh nghiệp nằm trong diện đối tượng bắt buộc phải kiểm toán báo cáo tài chính bao gồm:
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng, bao gồm cả chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Tổ chức tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài.
Công ty đại chúng, tổ chức phát hành và tổ chức kinh doanh chứng khoán.
Các doanh nghiệp, tổ chức khác bắt buộc phải kiểm toán theo quy định của pháp luật có liên quan.
Doanh nghiệp nhà nước, trừ doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực thuộc bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật phải được kiểm toán đối với báo cáo tài chính hàng năm.
Doanh nghiệp, tổ chức thực hiện dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A sử dụng vốn nhà nước, trừ các dự án trong lĩnh vực thuộc bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật phải được kiểm toán đối với báo cáo quyết toán dự án hoàn thành.
Doanh nghiệp, tổ chức mà các tập đoàn, tổng công ty nhà nước nắm giữ từ 20% quyền biểu quyết trở lên tại thời điểm cuối năm tài chính phải được kiểm toán đối với báo cáo tài chính hàng năm.
Doanh nghiệp mà các tổ chức niêm yết, tổ chức phát hành và tổ chức kinh doanh chứng khoán nắm giữ từ 20% quyền biểu quyết trở lên tại thời điểm cuối năm tài chính phải được kiểm toán đối với báo cáo tài chính hàng năm.
Doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam phải được kiểm toán đối với báo cáo tài chính hàng năm.
Kiểm toán báo cáo tài chính được thực hiện bởi tổ chức kiểm toán, chủ thể của kiểm toán nội bộ nào?
Các đơn vị đủ điều kiện để thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính là các công ty kiểm toán tại Việt Nam, đây là các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của Pháp luật Việt Nam, có đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán theo quy định và được Bộ tài chính Việt Nam cấp chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán, bao gồm:
Doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam
Chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam
Công ty kiểm toán vốn Việt Nam được thành lập theo quy định của pháp luật.
Mục đích của kiểm toán báo cáo tài chính
Mục đích của kiểm toán báo cáo tài chính là làm tăng độ tin cậy của người sử dụng đối với báo cáo tài chính, thông qua việc kiểm toán viên đưa ra ý kiến về việc liệu báo cáo tài chính có được lập, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng hay không.
Đối với hầu hết các khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính cho mục đích chung, kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến về việc liệu báo cáo tài chính có được lập và trình bày trung thực và hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng hay không. Một cuộc kiểm toán được thực hiện theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, chuẩn mực và các quy định về đạo đức nghề nghiệp có liên quan sẽ giúp kiểm toán viên hình thành ý kiến kiểm toán.
Những đối tượng có nhu cầu sử dụng báo cáo tài chính đã kiểm toán bao gồm các cổ đông, chủ nợ, đối tác hoặc khách hàng của doanh nghiệp bắt buộc cần phải kiểm toán.
Quy định chung về kiểm toán
Kiểm toán do nhiều chủ thể của kiểm toán nội bộ tiến hành, do đó, tùy thuộc vào loại kiểm toán mà quyền và nghĩa vụ của chủ thể thực hiện kiểm toán và đối tượng bị kiểm toán có sự khác nhau. Căn cứ vào tư cách pháp lí của chủ thể của kiểm toán nội bộ tiến hành kiểm toán và giá trị pháp lí của hoạt động kiểm toán, kiểm toán được phân thành các loại: kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập, kiểm toán nội bộ.
Kiểm toán nhà nước hay còn gọi là kiểm toán công, do cơ quan kiểm toán nhà nước tiến hành để kiểm tra, đánh giá, kết luận và xác nhận tính đầy đủ, hợp lí, hợp pháp của số liệu, tài liệu kế toán, báo cáo tài chính của các cơ quan, tổ chức có liên quan đến thu, chỉ ngân sách nhà nước.
Kiểm toán độc lập là hoạt động kiểm toán do Kiểm toán viên độc lập thực hiện theo hợp đồng với tổ chức, cá nhân có nhu cầu kiểm toán đối với hoạt động tài chính của mình. Hoạt động của Kiểm toán viên độc lập nhằm giúp cho tổ chức, cá nhân có nhu cầu kiểm toán thẩm định tính đầy đủ, trung thực, hợp lí của số liệu, tài liệu kế toán, báo cáo tài chính.
Kiểm toán nội bộ là kiểm toán thực hiện trong phạm vi một chủ thể kinh doanh. Kiểm toán nội bộ được thực hiện nhằm bảo đảm duy trì trật tự và hiệu quả của hoạt động tài chính của chính chủ thể tổ chức hoạt động kiểm toán. Riêng đối với doanh nghiệp nhà nước, thực hiện kiểm toán nội bộ là nghĩa vụ được pháp luật quy định.
Kết quả của hoạt động kiểm toán thể hiện ở báo cáo kiểm toán do đoàn kiểm toán hoặc Kiểm toán viên lập. Giá trị pháp lí của báo cáo kiểm toán tài chính phụ thuộc vào chủ thể của kiểm toán nội bộ.
Hoạt động kiểm toán không thay thế các cơ quan nhà nước về kế toán và kiểm tra. Dịch vụ kiểm toán đã có hơn 100 năm nay. Công ti Praixơ Oatơhao (Price Waterhouse) được thành lập năm 1880 tại Luân Đôn, Công ti Athơ Anđecxen (Arthur Andersen) được thành lập năm 1889 tại Chicago, Hoa Kì. Trên thế giới hiện nay có những tập đoàn, công ti kiểm toán lớn như tập đoàn Erônxtơ Young.
Trước đây, ở Việt Nam, có công tỉ kiểm toán Việt Nam (VACO) là công ti kiểm toán đầu tiên, thành lập năm 1991, hoạt động một cách độc lập. Quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân ban hành theo Nghị định số 07/CP ngày 21.01.1994 của Chính phủ. Quốc hội Khoá XI, tại kì họp lần thứ 7 năm 2005 đã thông qua Luật kiểm toán nhà nước năm 2005 tạo cơ sở pháp lí ở tầm lập pháp cho sự ra đời, thành lập hệ thống các cơ quan kiểm toán nhà nước Việt Nam.
Hiện nay, ở Việt Nam đang áp dụng Luật kiểm toán nhà nước năm 2015 (Luật kiểm toán nhà nước sửa đổi năm 2019)
Chức năng của Kiểm toán nhà nước
Có thể hiểu một cách đơn giản: “kiểm toán là xem xét và đưa ra ý kiến đối với báo cáo tài chính của một tổ chức”. Hoạt động kiểm toán nhằm xác định liệu hóa đơn, chứng từ, sổ sách kế toán có được lập chính xác, đúng pháp luật và thể hiện chính xác các giao dịch mà nó minh chứng, về mặt nghiệp vụ, khi tiến hành kiểm toán, chủ thể của kiểm toán nội bộ sau khi xác nhận hồ sơ kiểm toán sẽ đưa ra kết luận và kiến nghị đối với việc sử dụng tài chính vừa kiểm toán. Ở đây cần lưu ý một đặc thù của hoạt động kiểm toán nói chung là nếu phát hiện có sai phạm, cơ quan kiểm toán sẽ công khai sai phạm đó thay vì quyết định những biện pháp xử lí cụ thể. Kiểm toán là hoạt động khá phổ biến trong nền kinh tế thị trường và có thể được thực hiện bởi nhiều chủ thể của kiểm toán nội bộ khác nhau hướng tới nhiều đối tượng khác nhau.
Chức năng của kiểm toán nhà nước chính là tiến hành các hoạt động kiểm toán công. Chức năng của kiểm toán nhà nước có một số đặc điểm sau.
Thứ nhất, đối tượng kiểm toán của kiểm toán nhà nước là tất cả các hoạt động quản lí, sử dụng tài chính công, tài sản công và các hoạt động liên quan đến việc quản lí, sử dụng tài chính công, tài sản công của các cơ quan, tổ chức có sử dụng tài chính, tài sản công. Luật kiểm toán nhà nước năm 2015 không có sự hạn chế đối với các chủ thể sử dụng ngân sách nhà nước có thể trở thành đơn vị bị kiểm toán bởi kiểm toán nhà nước, đối tượng bị kiểm toán có thể là các bộ, Văn phòng chính phủ, các doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức xã hội …Sự hạn chế phạm vi kiểm toán của kiểm toán nhà nước đến từ nguồn tài chính và tài sản được sử dụng là ngân sách nhà nước và tài sản công. kiểm toán nhà nước không tiến hành kiểm toán đối với việc sử dụng nguồn tài chính hoặc tài sản khác. Như vậy, kiểm toán nhà nước không tiến hành kiểm toán đối với các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân không sử dụng ngân sách nhà nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không sử dụng ngân sách và tài sản của Nhà nước Việt Nam cũng không chịu sự kiểm toán của kiểm toán nhà nước. Những đối tượng đó thuộc phạm vi kiểm toán của kiểm toán thương mại độc lập theo quy định của pháp luật về kiểm toán độc lập.
Thứ hai, kiểm toán nhà nước là hoạt động kiểm toán mang tính quyền lực nhà nước, nhân danh nhà nước. Theo quy định của pháp luật, hằng năm kiểm toán nhà nước tự quyết định kế hoạch kiểm toán năm và báo cáo Quốc hội trước khi thực hiện. Ngoài ra, kiểm toán nhà nước cũng có thể tiến hành các cuộc kiểm toán không nằm trong kế hoạch năm nhưng phải dưới hình thức được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hay Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ. Có thể hiểu là nếu những cơ quan này giao nhiệm vụ kiểm toán thì kiểm toán nhà nước phải thực hiện. Các cơ quan khác, bao gồm Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cũng có thể đề nghị kiểm toán nhà nước tiến hành một cuộc kiểm toán nào đó. Khi đó kiểm toán nhà nước có thể xem xét, quyết định chứ không có nghĩa vụ đáp ứng đề nghị kiểm toán.1 Đó là 3 căn cứ pháp lý để kiểm toán nhà nước tiến hành một cuộc kiểm toán và khi cuộc kiểm toán đã được quyết định tiến hành một cách họp pháp thì đối tượng bị kiểm toán phải chấp hành sự kiểm toán của kiểm toán nhà nước (Khoản 1,2, 3, Điều 10 Luật kiểm toán nhà nước năm 2015 và Khoản 2 Điều 8, Điều 68 kiểm toán nhà nước năm 2015). Hoạt động kiểm toán của kiểm toán nhà nước không dựa trên mối quan hệ khách hàng – nhà cung cấp dịch vụ như quan hệ kiểm toán độc lập trong nền kinh tế.
Thứ ba, hoạt động kiểm toán của kiểm toán nhà nước, cũng giống như các hoạt động kiểm toán thương mại độc lập, là hoạt động mang tính chuyên môn và tính khách quan rất cao. Hoạt động của kiểm toán nhà nước không phải hoạt động mang tính chất chính trị hay đơn thuần là hành chính điều hành. Hoạt động mang tính chất chính trị, ví dụ hoạt động ban hành luật hay chính sách của Quốc hội hay Chính phủ, là những hoạt động lấy quyết định theo đa số. Đa số quyết định có nghĩa là đúng và được thi hành. Các hoạt động hành chính điều hành dựa trên quan hệ cấp trên – cấp dưới, cấp trên quyết định là cấp dưới thi hành, cho dù quyết định của cấp trên có thể sai hay đúng. Hoạt động chủ yếu của kiểm toán nhà nước, cũng giống như các hoạt động kiểm toán khác, là làm việc với những con số, với hóa đơn, chứng từ tài chính. kiểm toán nhà nước xác nhận sự chính xác và hợp lí của sổ sách kế toán, hóa đơn, chứng từ có sẵn quy chiếu theo các quy chuẩn cụ thể và chi tiết của kiểm toán, kế toán. Ở góc độ nào đó, hoạt động này nhằm xác định cái đúng, cái sai căn cứ trên tiêu chuẩn nhất định. Vì vậy nó mang tính chuyên môn và khách quan. Cái gì đúng với quy chuẩn thì là đúng và cái gì sai với quy chuẩn thì là sai. Cũng chính vì vậy mà trong các công đoạn kiểm toán của kiểm toán nhà nước, cũng như hoạt động kiểm toán khác, bao giờ cũng có một công đoạn dành cho đối tượng bị kiểm toán có ý kiến đối với các phát hiện và kết luận của kiểm toán nhà nước trình bày trong dự thảo báo cáo kiểm toán (Khoản 2 Điều 47 Luật kiểm toán nhà nước năm 2015), mục đích cũng là để tìm đến cái đúng, cái sai trong sử dụng tài chính, tài sản công một cách khách quan, chính xác nhất.
Quy trình thực hiện công việc của kiểm toán viên – chủ thể của kiểm toán nội bộ
Lập kế hoạch kiểm toán
Kế hoạch kiểm toán bao gồm thời gian dự kiến cũng như những dự tính hay cách thức thực hiện các hoạt động kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán cần phải đầy đủ, chi tiết và có cơ sở hợp lý. Lập nên kế hoạch kiểm toán là việc thu thập tất cả các thông tin liên quan đến tình hình tài chính nội bộ doanh nghiệp nhằm để kiểm tra và đánh giá xem có sự sai sót nào hay không. Đó là cơ sở để hình thành nên các kế hoạch thực hiện các hoạt động cũng như hạn chế rủi ro mắc phải.
Xây dựng quy trình kiểm toán
Đây là công đoạn không thể thiếu đối với bất kỳ kiểm toán viên nào bởi nhờ có nó mà công việc của kiểm toán viên được chính xác và diễn ra suôn sẻ hơn. Trong công đoạn xây dựng quy trình kiểm toán, các kiểm toán viên có nhiệm vụ xác định số lượng và thứ tự các bước kể từ điểm bắt đầu đến điểm kết thúc công việc kiểm toán.
Trên đây là bài viết tư vấn về chủ thể của kiểm toán nội bộ của Luật Trần và Liên danh. Nếu có thắc mắc hãy gọi cho chúng tôi theo số Hotline: 0969 078 234 để được tư vấn miễn phí.