Bồi thường thiệt hại là điều khoản thường gặp trong hợp đồng, nhất là hợp đồng thương mại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng dân sự và ngoài hợp đồng được điều chỉnh bởi Bộ Luật dân sự 2015, chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại được điều chỉnh bởi Luật Thương mại 2005.
Công ty TNHH Luật Trần và Liên Danh xin chia sẻ với bạn đọc về chế tài bồi thường thiệt thương mại trong bài viết dưới đây.
Khái niệm bồi thường thiệt hại trong thương mại
Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.
Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm:
Giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.
Một số hình thức của bồi thường thiệt hại
Bù đắp những tổn thất phát sinh từ hành vi vi phạm hợp đồng gồm tổn thất thực tế và khoản lợi bị bỏ lỡ;
Đền bù thiệt hại cho việc thanh toán chậm, nếu vi phạm nghia vụ thanh toán;
Các trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại
– Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;
– Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
– Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
– Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.
Nghĩa vụ của bên yêu cầu bồi thường thiệt hại
Thứ nhất, chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.
Thứ hai, bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất kể cả tổn thất đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra.
Nguyên tắc xác định mức bồi thường
Do mang tính bù đắp nên số tiền bồi thường không thể vượt quá số tiền thiệt hại thực tế. Đây là nguyên tắc xác định mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, hạn chế mức bồi thường không lớn hơn mức thiệt hại của bên bị vi phạm.
Quyền yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán
Việc chậm thanh toán là khá phổ biến khi các bên thực hiện hợp đồng, đây được coi là một hành vi vi phạm hợp đồng và có thể được xử lý bằng cách áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại.
Cụ thể là nếu một bên chậm thanh toán thì bên kia có quyền yêu cầu trả lãi trên số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm chậm thanh toán.
Giá trị bồi thường thiệt hại được xác định như thế nào?
Điều 302 Luật thương mại 2005 quy định như sau:
“Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.”
Như vậy, giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm:
Giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra;
Khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Điều 303 Luật thương mại 2005 quy định như sau:
“Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:
Có hành vi vi phạm hợp đồng;
Có thiệt hại thực tế;
Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.”
Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi chứng minh hội đủ cả 3 yếu tố là có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế và thiệt hại được trực tiếp gây ra bởi hành vi vi phạm hợp đồng.
Cũng theo Điều 304 và Điều 305 của Luật thương mại 2005 thì để có thể áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại thì bên bị vi phạm phải chứng minh được những tổn thất của mình và cũng phải hạn chế tổn thất để tránh việc bên bị vi phạm ỉ vào bên vi phạm bồi thường mà không làm gì để hạn chế tổn thất dù việc ngăn chặn đó là trong khả năng của họ:
Nghĩa vụ chứng minh tổn thất: Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.
Nghĩa vụ hạn chế tổn thất: Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất kể cả tổn thất đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra.
Nếu bên yêu cầu bồi thường thiệt hại không áp dụng các biện pháp đó, bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được.
Yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán như một cách áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại
Việc chậm thanh toán là khá phổ biến khi các bên thực hiện hợp đồng, đây được coi là một hành vi vi phạm hợp đồng và có thể được xử lý bằng cách áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại.
Cụ thể là nếu một bên chậm thanh toán thì bên kia có quyền yêu cầu trả lãi đối với số tiền chậm trả, áp dụng lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm chậm thanh toán. Căn cứ Điều 306 Luật thương mại 2005:
“Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Có thể áp dụng một hay một vài chế tài?
Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại khi xẩy ra tranh chấp hợp đồng.
Chế tài bồi thường thiệt hại được áp dụng thế nào trong BLDS 2015?
Thông thường, theo quy định của Bộ luật dân sự thì bồi thường thiệt hại thì chế tài bồi thường thiệt hại sẽ căn cứ vào trường hợp hành vi vi phạm là bồi thường thiệt hại theo hợp đồng hay bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trường hợp bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì có thể căn cứ vào những điều khoản theo hợp đồng về bồi thường thiệt hại (bởi hợp đồng là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên trong việc giải quyết một vấn đề gì đó).
Nếu hợp đồng không quy định thì sẽ dựa vào thỏa thuận sau khi xảy ra sự việc. Nếu điều này cũng không thực hiện được thì áp dụng theo nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định tại Điều 585, Bộ luật dân sự năm 2015:
Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.
Cần phải lưu ý, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo điều khoản theo hợp đồng thì hợp đồng phải có hiệu lực. Còn lại thì cấu thành phải gồm: Có hành vi vi phạm pháp luật, có thiệt hại xảy ra trên thực tế và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật và thiệt hại đó. Có những trường hợp sẽ yêu cầu yếu tố lỗi của người thực hiện hành vi
Như vậy, toàn bộ thông tin liên quan trên đây của chúng tôi hy vọng phần nào có thể giải đáp thắc mắc cho các bạn liên quan đến Chế tài bồi thường thiệt hại được áp dụng thế nào? bồi thường thiệt hại là chế tài hành chính có đúng không.
Để hiểu rõ hơn các quy định này, những vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khác, quý khách hàng có thể liên lạc với Chúng tôi để được tư vấn bởi đội ngũ luật sư, chuyên viên có kinh nghiệm hơn 20 năm trong tư vấn pháp lý chuyên nghiệp. Chúng tôi sẽ tiếp nhận hồ sơ một cách nhanh chóng nhất và khoanh vùng, giải đáp cụ thể đến quý khách hàng:
Khi chuẩn bị ký kết hợp đồng, bạn cần đảm bảo là bạn có một bản hợp đồng chặt chẽ và kín kẽ, vì nếu xảy ra bất kỳ hành vi vi phạm hợp đồng nào, hợp đồng có những điều khoản bảo vệ quyền lợi của bạn. Bạn có thể sử dụng dịch vụ soạn thảo hợp đồng uy tín và chất lượng của Công ty TNHH Luật Trần và Liên Danh.
Thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm
Thời hạn được bồi thường là khoảng thời gian mà người được bồi thường được hưởng do tính mạng, sức khoẻ bị xâm hại.
Thời hạn được bồi thường xác định trên cơ sở khả năng người bị thiệt hại có tạo được thu nhập hay không sau khi đã ổn định sức khoẻ và người được cấp dưỡng còn cần phải cấp dưỡng hay không căn cứ vào khả năng lao động của họ để xác định thời hạn được hưởng.
Nếu người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì khoản thu nhập bị giảm sút của họ được bồi thường từ thời điểm mất hoàn toàn khả năng lao động đến khí họ chết, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Trong trường hợp người bị thiệt hại chết thì những người mà họ có nghĩa vụ cấp dưỡng khi còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng từ thời điểm người có tính mạng bị xâm phạm chết trong thời hạn sau:
– Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết và còn sống sau khi sinh ra được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi, trừ trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sổng bản thân;
– Người thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết.
Điều 593 Bộ luật dân sự năm 2015 chỉ quy định thời hạn cho việc bồi thường đối với người mất hoàn toàn khả năng lao động và người chết nhưng họ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho người khác mà không quy định thời hạn bồi thường trong trường hợp người bị thiệt hại giảm sức lao động, do đó việc suy giảm khả nâng lao động cũng cần được xác định thời hạn bồi thường một cách cụ thể.
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật, đối với con đã thành thai của người chết, tiền cấp dưỡng được tính từ thời điểm người này sinh ra và còn sống.
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi nếu bạn đọc có vướng mắc, xin vui lòng liên hệ theo địa chỉ Hotline để được tư vấn tận tình và hiệu quả.