Thế nào là người chưa vị thành niên? vị thành niên? Thế nào là bồi thường thiệt hại? Quy định pháp luật về người chưa vị thành niên đền bù thiệt hại? Hãy cùng chúng tôi đi tìm câu trả lời qua vài viết dưới đây bạn nhé!
Người chưa vị thành niên là gì?
Theo quy định của pháp luật thì tiêu chí pháp lý để phân biệt giữa thanh niên, người lớn và người chưa thành niên đó là độ tuổi.
Điều 18 của Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Người nào trên 18 tuổi là người thành niên, đủ tuổi hợp pháp. Còn những người dưới mười tám tuổi là người chưa thành niên.
Người thành niên là những người đã phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần và tâm hồn và phải chịu trách nhiệm về những việc làm của mình. Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và được hưởng đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của công dân. Với đặc điểm cả thể chất và tinh thần của người chưa thành niên, pháp luật nước ta có những quy định riêng đối với nhóm đối tượng này trong từng lĩnh vực cụ thể, như: hình sự, dân sự, xử phạt vi phạm hành chính,…
Thế nào là bồi thường thiệt hại đối với vị thành niên?
Bồi thường thiệt hại là một trong những chế định quan trọng được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Đây là một dạng trách nhiệm dân sự nhằm buộc người phạm tội phải khắc phục hậu quả. Trong số các hình thức trách nhiệm dân sự phát sinh từ hợp đồng, đền bù thiệt hại thường là hình thức trách nhiệm phổ biến nhất. Trên thực tế, việc đền bù thiệt hại diễn ra rất phổ biến nhưng nhiều đối tượng chưa hiểu hết thực chất và quy định của pháp luật về vấn đề này.
Theo khoản 1 Điều 584 của BLDS 2015 quy định nội dung như sau: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.
Việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhằm khắc phục và đền bù cho những tổn thất mà người bị thiệt hại phải chịu về thực tế gây ra thiệt hại cũng như tài sản gây ra thiệt hại. Đền bù là cơ sở để duy trì trật tự xã hội và bảo đảm công bằng trong mọi lĩnh vực của đời sống.
Cho đến nay, trách nhiệm đền bù thiệt hại không còn là quy tắc đạo đức nữa mà đã được pháp điển hóa và ghi nhận thành một quy phạm quan trọng trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Là hình thức trách nhiệm dân sự do cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác lập nhằm buộc người gây thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bồi thường về vật chất và tinh thần cho bên bị thiệt hại. Trong số các hình thức trách nhiệm pháp lý theo hợp đồng, bồi thường thiệt hại là hình thức phổ biến nhất của trách nhiệm pháp lý.
Quy định pháp luật về người chưa vị thành niên bồi thường thiệt hại
Theo quy định của pháp luật hiện hành, nguyên tắc đền bù thiệt hại ngoài hợp đồng đối với những thiệt hại gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tài sản của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp quy định khác tại Bộ luật Dân sự năm 2015, các luật khác có liên quan. Tuy nhiên, người chưa thành niên
là đối tượng đặc biệt, mà tại Điều 586, Bộ luật dân sự năm 2015, đã quy định cụ thể đối với đối tượng này như sau:
(i) Người dưới mười lăm tuổi gây ra thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; Trường hợp tài sản của người cha không đủ để bồi thường và người con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì tài sản này được sử dụng để bù đắp, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.
(ii) Nếu người từ đủ mười lăm tuổi đến mười tám tuổi gây thiệt hại thì yêu cầu bồi thường bằng tài sản; Nếu tài sản không đủ thì cha hoặc mẹ phải bù đắp phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
(iii) Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hay người khó nhận thức, khó kiểm soát được sự việc gây ra thiệt hại và người có người giám hộ được sử dụng tài sản của người giám hộ để đền bù thiệt hại. Nếu người được giám hộ không có hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình. Nếu như người giám hộ có thể chứng minh rằng họ không có lỗi trong việc giám hộ thì họ không phải lấy tài sản của mình ra để bồi thường.
Ngoài ra, pháp luật còn quy định một trường hợp khác về đền bù thiệt hại do người dưới 15 tuổi gây ra hoặc do hành vi dân sự liên quan trực tiếp đến trường học, bệnh viện hoặc pháp nhân khác theo quy định tại Điều 599 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
(i) Nếu người dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại cho bộ phận quản lý trực tiếp của nhà trường thì nhà trường phải đền bù thiệt hại.
(ii) Nhà trường không phải bồi thường nếu chứng minh được mình không có trách nhiệm trong quá trình quản lý; trong trường hợp này là cha, mẹ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi sẽ là người phải đứng ra giải quyết đền bù thiệt hại.
Tuổi vị thành niên là bao nhiêu tuổi?
Căn cứ Điều 1 Luật Trẻ em 2016 quy định về trẻ em như sau:
Trẻ em
Trẻ em là người dưới 16 tuổi.
Theo khoản 1 Điều 20 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người thành niên như sau:
Người thành niên
Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên.
…
Căn cứ khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người chưa thành niên như sau:
Người chưa thành niên
Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.
….
Như vậy, hiện nay pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể như thế nào là tuổi vị thành niên và chưa vị thành niên. Chỉ có quy định về người chưa thành niên là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và người thành niên là từ đủ 18 tuổi trở lên.
Tuy nhiên một thông tin có thể tham khảo là tổ chức Y tế Thế giới (WHO) quy định lứa tuổi 10 – 19 tuổi là độ tuổi vị thành niên.
Năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên được xác định như thế nào?
Căn cứ khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người chưa thành niên như sau:
Người chưa thành niên
…
Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.
Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
Theo đó, đối với người chưa đủ sáu tuổi thì khi giao dịch dân sự phải do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.
Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Trừ trường hợp giao dịch dân sự này phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
Đối với người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
Trừ những giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
Năng lực hành vi dân sự của người thành niên và vị thành niên được xác định như thế nào?
Căn cứ tại khoản 2 Điều 20 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người thành niên như sau:
Người thành niên
…
Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại các điều 22, 23 và 24 của Bộ luật này.
Căn cứ theo Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về mất năng lực hành vi dân sự như sau:
Mất năng lực hành vi dân sự
Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
Căn cứ Điều 23 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi như sau:
Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Căn cứ Điều 24 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sự như sau:
Hạn chế năng lực hành vi dân sự
Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Theo đó, người thành niên (người từ đủ 18 tuổi trở lên) có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Trừ trường hợp người này mất năng lực hành vi dân sự, hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Giao dịch dân sự của người người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự được quy định cụ thể tại Điều 22, Điều 23, Điều 24 nêu trên.
Trên đây là toàn bộ thông tin liên quan đến nội dung vị thành niên là gì? Hi vọng hữu ích với bạn.