Quy định giảm nhẹ hình phạt cho phụ nữ mang thai

Quy định giảm nhẹ hình phạt cho phụ nữ mang thai

Chính sách hình sự nhân đạo luôn được Nhà nước ta quan tâm quy định để áp dụng đối với người phạm tội. Trong tất cả các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến giải quyết vụ án hình sự đều thể hiện các quy định có lợi cho người bị buộc tội và chấp hành án. Trong Bộ luật Hình sự (BLHS), Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) và các văn bản hướng dẫn áp dụng đều thể hiện rõ chính sách hình sự nhân đạo này.

Căn cứ pháp lý:

  • Bộ luật hình sự năm 2015;

Tư vấn quy định giảm nhẹ hình phạt cho phụ nữ mang thai:

Tại Điều 29 BLHS năm 2015, các căn cứ miễn TNHS được quy định như sau:
“1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi có quyết định đại xá.
2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
c) Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự”.

Một cá nhân phạm tội khi có đủ một trong những căn cứ như trên thì có thể xem xét được miễn chấp hành hình phạt. Đối với phụ nữ mang thai cũng vậy. Tuy nhiên, nếu không đáp ứng đủ điều kiện để được miễn TNHS, thì khi xét xử và quyết định hình phạt họ sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS.

Bộ luật Hình sự 2015 không đưa ra định nghĩa cụ thể về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhưng có thể hiểu một cách đơn giản, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những quy định về điều kiện, hoàn cảnh, tình huống để Tòa án cân nhắc, xem xét việc áp dụng hình phạt theo hướng giảm nhẹ cho người phạm.

Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015  quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Trong đó Điểm n Khoản 1 Điều 51 có quy định “Người phạm tội là phụ nữ có thai” là một tình tiết giảm nhẹ.

Khoản 1 Điều 50 BLHS 2015 quy định Căn cứ quyết định hình phạt:

Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Do vậy, khi phụ nữ mang thai phạm tội căn cứ vào tình tiết giảm nhẹ cùng với việc cân nhắc vào tính chất, mức độ nguy hiểm, nân thân người phạm tội mà Tòa án sẽ xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Bên cạnh đó,  Điểm b Khoản 1 Điều 61BLHS quy định về việc hoãn chấp hành phạt tù thì: “Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi”;

Do đó, khi chấp hành hình phạt, để bảo đảm cho sức khỏe cho người mẹ cũng như đứa con mà phụ nữ đang mang thai được hoãn chấp hành hình phạt cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi.

Điều 40 BLHS 2015 quy định về hình phạt  Tử hình như sau:

“1. Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định.

2. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.

3. Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi;

b) Người đủ 75 tuổi trở lên;

c) Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.

4. Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này hoặc trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân”.

Mang thai được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi nào?

Theo quy định tại khoản 1 Điều 52 thì mang thai là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên không phải lúc nào mang thai cũng sẽ giảm nhẹ mà phải đáp ứng những điều kiện nhất định. Cụ thể:

Mang thai được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi người phụ nữ đang có thai khi thực hiện tội phạm hoặc trong giai đoạn xét xử. Người phụ nữ phải chứng minh là mình có thai khi phạm tội. Trong trường hợp chưa có đủ căn cứ để kết luận người phụ nữ có thai khi phạm tội thì phải căn cứ vào kết luận của cơ quan chuyên môn y tế hoặc kết luận giám định.

Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào thời kỳ mang thai, ảnh hưởng của tình trạng thai nhi đến việc thực hiện tội phạm của bị cáo.

Khi nào mang thai được hoãn thi hành án phạt tù?

Theo quy định tại Điều 67 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017 về hoãn thi hành án phạt tù thì: phụ nữ mang thai được hoãn thi hành án phạt tù khi đã có quyết định cuối cùng của Tòa án về tội phạm, tức là khi đã nhận án phạt tù và quyết định đó chưa được thi hành. Do đó, tùy trường hợp phụ nữ mang thai trong giai đoạn nào sẽ áp dụng các quy định hoãn hay là tình tiết giảm nhiệm trách nhiệm hình sự cho phù hợp.

Người bị xử phạt tù nếu có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng, đồng thời sau khi bị xử phạt tù không có hành vi vi phạm pháp luật nghiệm trọng, không có căn cứ cho rằng họ bỏ trốn và thuộc một trong các trường hợp sau đây thì được hoãn chấp hành hình phạt tù:

là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi (không phân biệt là con đẻ hay con nuôi), nếu họ bị xử phạt tù lần đầu. Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù mà người bị kết án lại có thai hoặc phải tiếp tục nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì vẫn được hoãn cho đến khi đứa con sau cùng đủ 36 tháng tuổi.

Quy định giảm nhẹ hình phạt cho phụ nữ mang thai
Quy định giảm nhẹ hình phạt cho phụ nữ mang thai

Một số bất cập xảy ra trong thực tế áp dụng

Trong thực tế áp dụng những quy định của pháp luật đã nảy sinh một số bất cập.

– Thứ  nhất, việc nuôi con dưới 36 tháng tuổi, không chỉ riêng là người mẹ, mà trong thực tế vẫn có thể là do người cha nuôi dưỡng. Vì có nhiều trường hợp vì lý do nào đó, trẻ dưới 36 tháng tuổi có thể khi mới sinh ra người mẹ qua đời thì chỉ còn lại người cha nuôi dưỡng. Trong trường hợp này, để đảm bảo quyền lợi của đứa trẻ thì việc người cha trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con là vấn đề đương nhiên và cần thiết. Nhưng trong các quy định hiện hành không xác định người cha được áp dụng chế định có lợi này nếu có hành vi phạm tội. Nếu cho rằng, việc quy định chế định này là nhằm đảm bảo quyền lợi của người mẹ, vì “mang nặng, đẻ đau” nên được xem xét tính nhân đạo đối với người mẹ, thì bản chất của chế định này chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi của người mẹ, chứ không nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho đứa trẻ.

– Thứ hai, trường hợp nhận trẻ dưới 36 tháng tuổi làm con nuôi; hoặc ông bà, chú bác, cô dì… nuôi cháu dưới 36 tháng tuổi khi không may cha mẹ qua đời… Tất cả những trường hợp này về bản chất đều thuộc trường hợp nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Trong các quy định chưa xác định rõ những trường hợp này. Tuy nhiên, trong quy định hiện hành thể hiện “phụ nữ nuôi con dưới 36 tháng tuổi”, quy định này không thể hiện rõ là con đẻ hay con nuôi; do vậy, nếu trên thực tế có việc phụ nữ nuôi con (là con nuôi) cũng có thể xem xét để áp dụng theo quy định hiện hành.

– Thứ ba, thời gian tính để thực hiện các thủ tục tố tụng tiếp theo đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi trong một số trường hợp cũng chưa phù hợp. Trên thực tế việc mang thai, có nhiều trường hợp sẽ sẩy thai và cũng có trường hợp việc nuôi con vì lý do nào đó cũng dẫn đến đứa bé tử vong trước khi đủ 36 tháng tuổi. Với các quy định hiện hành như đối với trường hợp cho hoãn chấp hành án phạt tù hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù thì phải đảm bảo thời gian đủ như trên thực tế đưa trẻ đủ 36 tháng tuổi (kể cả trong trường hợp mang thai nhưng bị sẩy thai hoặc đứa trẻ chết trước khi đủ 36 tháng tuổi) thì mới hết thời gian hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành án hình phạt tù. Rõ ràng, khi áp dụng như quy định là không phù hợp; quy định chỉ phù hợp khi đứa trẻ thành thai và sinh ra nuôi đến khi đủ 36 tháng tuổi hoặc đứa trẻ được nuôi đến khi đủ 36 tháng tuổi.

Kiến nghị sửa đổi

Kiến nghị sửa đổi, bổ sung các vấn đề liên quan đến chế định áp dụng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi:

Một là, để đảm bảo tính nhân đạo liên quan đến việc tạo điều kiện đứa trẻ dưới 36 tháng tuổi được chăm sóc và phát triển ổn định trong 36 tháng tuổi đầu đời; bên cạnh đó để ghi nhận công lao đối với người trực tiếp chăm sóc đứa trẻ, nếu không may có hành vi phạm tội thì được xem xét sự khoan hồng của pháp luật. Theo đó, trong các quy định liên quan đến chế định “phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi” cần sửa đổi, bổ sung lại: “phụ nữ có thai hoặc người trực tiếp nuôi trẻ em dưới 36 tháng tuổi”. Việc sửa đổi, bổ sung này, đảm bảo phụ nữ có thai và người mẹ trực tiếp nuôi con hoặc người cha trực tiếp nuôi con hoặc bất kỳ người nào khác trực tiếp nuôi đứa trẻ dưới 36 tháng tuổi đều được hưởng chính sách nhân đạo này.

Hai là, các quy định liên quan đến hoãn chấp hành hình phạt tù và tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù cần sửa đổi, bổ sung quy định “Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi” theo hướng mở rộng đối tượng áp dụng và quy định rõ thêm về điều kiện áp dụng. Quy định này có thể sửa đổi, bổ sung như sau: “Phụ nữ có thai hoặc người đang nuôi trẻ em dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi đứa trẻ đủ 36 tháng tuổi. Trường hợp thai nhi chết trước khi sinh ra, thì hoãn đến đủ (06 tháng) kể từ ngày biết thai nhi chết; trường hợp đứa trẻ chết trước khi đủ 36 tháng tuổi thì hoãn đến đủ (ba tháng) kể từ khi đứa trẻ chết”[8].

Ba là, nếu không sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng đối tượng áp dụng thì quy định hiện hành phải thể hiện rõ lại. Cụ thể, phải bổ sung rõ lại là “phụ nữ nuôi con đẻ dưới 36 tháng tuổi”.

Tóm lại, chế định về áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội là phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi là một trong những chính sách hình sự nhân đạo, khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta được quy định trong BLHS và BLTTHS. Tuy nhiên, để đảm bảo áp dụng thống nhất chế định này đối với người phạm tội thì cần quy định chặt chẽ, đảm bảo phù hợp, điều chỉnh toàn diện và đảm bảo tính khả thi. Do vậy, các quy định liên quan đến chế định này cần sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng đối tượng được áp dụng và đảm bảo chặt chẽ hơn về điều kiện áp dụng./.

 

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139