Tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS năm 2015) thường chỉ bị nhầm lẫn với Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170 BLHS năm 2015) trong trường hợp người phạm tội có hành vi “đe dọa dùng vũ lực”.
Vậy đối với hành vi đe dọa dùng vũ lực chiếm đoạt tài sản, trường hợp nào thì cấu thành Tội cướp tài sản, còn trường hợp nào chỉ cấu thành Tội cưỡng đoạt tài sản?
Trước hết, cần khẳng định cả hai tội này đều có giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên, đối với Tội cướp tài sản, phạm tội chưa đạt chỉ xảy ra trong trường hợp người phạm tội đã có hành vi khác làm cho người bị hại lâm vào tình trạng không thể tấn công được nhằm chiếm đoạt tài sản. Còn “dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc” thì không có trường hợp phạm tội chưa đạt mà đều là tội phạm đã hoàn thành.
Vậy “hành vi khác” trong Tội cướp tài sản là hành vi nào? Đây cũng là vấn đề do yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm này đặt ra. Trước đây về lý luận, đều khẳng định Tội cướp tài sản là tội có cấu thành hình thức, tức là chỉ cần người phạm tội có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc là tội phạm đã hoàn thành, không có trường hợp phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên, sau khi Điều 133 BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung và nay BLHS năm 2015 cũng quy định dấu hiệu “hoặc có hành vi khác”, thì Tội cướp tài sản vừa là tội cấu thành hình thức, vừa là tội cấu thành vật chất, tức là có trường hợp tội phạm chưa đạt.
Mặc dù trường hợp dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc không có giai đoạn phạm tội chưa đạt nhưng vẫn có giai đoạn chuẩn bị phạm tội như: Trường hợp người phạm tội “định” dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, nhưng vì khách quan trở ngại nên không thực hiện được hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực. Ví dụ: A, B, C, D bàn bạc chuẩn bị súng, dao để ra đường chặn người đi xe máy cướp tài sản. Nhưng trước khi đi thì D sợ nên đã báo với Công an đến “bắt nóng” A, B, C. Tuy A, B, C chưa thực hiện hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực nhưng A, B, C đều phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cướp tài sản ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
Đối với Tội cưỡng đoạt tài sản, người phạm tội chỉ có hành vi đe dọa dùng vũ lực chứ không có ý định nếu người bị hại không giao tài sản thì dùng vũ lực. Đây là vấn đề khó xác định, vì khi đã đe dọa dùng vũ lực nhưng người bị đe dọa không giao tài sản mà vụ việc bị phát hiện, thì hầu hết người phạm tội đều khai là chỉ dọa cho sợ để lấy tài sản, nếu người bị hại không giao tài sản thì cũng không dùng bạo lực.
Để phân biệt trường hợp đe dọa dùng bạo lực ngay tức khắc với chỉ dọa mà không đe dọa dùng bạo lực ngay tức khắc, phải căn cứ vào không gian, thời gian xảy ra vụ án. Nếu trong không gian, thời gian đó mà người bị đe dọa quá sợ phải giao tài sản cho người phạm tội thì phải định tội là cướp tài sản, bởi dù hành vi đe dọa không quyết liệt nhưng cũng làm cho người bị hại lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Ví dụ: Trong đêm tối, trên đoạn đường vắng vẻ, A đã chặn xe của mẹ con chị H để chiếm đoạt tài sản, nhưng ngay lúc đó có tổ tuần tra đi qua nên A bị bắt. Trường hợp này, dù A không dùng vũ lực cũng không de dọa dùng vũ lực ngay tức khắc thì cũng phải coi hành vi của A là cướp tài sản vì trong đêm tối, lại ở nơi vắng vẻ, nên mẹ con chị H đã lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Tuy nhiên, nếu A lại gặp chị H là trinh sát chuyên bắt cướp thì A phạm tội cưỡng đoạt tài sản, vì chị H không bị lâm vào tình trạng không thể chống cự được.
Như vậy, dấu hiệu quan trọng nhất để phân biệt hai tội này khi người phạm tội thực hiện hành vi đe dọa dùng vũ lực là người bị đe dọa có lâm vào tình trạng không thể chống cự được hay không. Dấu hiệu này hoàn toàn tùy thuộc vào tình hình thực tế để đánh giá.
1. Căn cứ pháp luật
Bộ luật hình sự 2015
Phân biệt tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản
Khi tiến hành phân biệt tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản, ta chia thành những điểm giống và khác nhau của hai tội này để người đọc dễ hiểu hơn.
Điểm giống nhau giữa cướp tài sản và cưỡng đoạt tài sản
Khi tiến hành phân biệt tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản ta tìm ra được những điểm chung của hai tội này như sau:
– Về mặt khách thể của tội phạm: Cả hai tội đều xâm phạm đến quyền sở hữu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; Đồng thời, xâm phạm đến quyền nhân thân (vì có thực hiện hành vi tác động đến người đang quản lý tài sản).
– Về mặt chủ quan của tội phạm: Tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp và đều có mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.
– Về chủ thể của tội phạm: Chủ thể của hai tội danh này đều là chủ thể thường, nghĩa là bất kỳ người nào thực hiện hành vi phạm tội, khi họ có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi theo quy định của pháp luật.
– Về đặc điểm của cấu thành tội phạm: Cả hai tội đều có cấu thành tội phạm hình thức (nghĩa là chỉ cần có hành vi khách quan được mô tả trong điều luật mà không cần hậu quả xảy ra và mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi; khi đó tội phạm đã được xem là hoàn thành).
Điểm khác nhau giữa cướp tài sản và cưỡng đoạt tài sản
Hành vi khách quan
– Cướp tài sản: Dùng vũ lực, đe dọa ngay tức khắc dung vũ lực hoặc dung thủ đoạn khác làm người có trách nhiệm về tài sản lâm vào tình trạng không thể tự vệ được để chiếm đoạt tài sản.
Ví dụ: Ví dụ: A lấy dao kề vào cổ B yêu cầu B đưa toàn bộ tiền và các tài sản có giá trị khác trên người B cho A và đe dọa nếu không đưa A sẽ giết B.
– Cưỡng đoạt tài sản: Đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác nhau uy hiếp tinh thần nhằm chiếm đoạt tài sản, buộc người có trách nhiệm về tài sản giao nộp tài sản nếu không giao nộp tài sản họ sẽ bị áp dụng dùng vũ lực hoặc sẽ bị gây thiệt hại đến nhân thân.
Ví dụ: Ví dụ: A đe dọa B là sẽ giết B nếu B không đưa cho A đủ 1 tỷ.
Trình trạng về mặt ý chí của nạn nhân
Cướp tài sản: Nạn nhân bị tê liệt về mặt ý chí do hành vi của người phạm tội gây ra , rơi vào tình trạng không thể chống cự được.
Cưỡng đoạt tài sản: Hành vi “sẽ dùng vũ lực” không diễn ra “ngay tức khắc” nên không làm cho nạn nhân bị tê liệt về mặt ý chí mà nạn nhân vẫn có thể chống cự được. Và nạn nhân vẫn còn khả năng, điều kiện để suy nghĩ, cân nhắc, chọn lựa, quyết định hành động trong một giới hạn nhất định.
Khung hình phạt của tội cướp tài sản
Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
Có tổ chức;
Có tính chất chuyên nghiệp;
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
Tái phạm nguy hiểm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
Làm chết người;
Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Khung hình phạt tội cưỡng đoạt tài sản
Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
Có tổ chức;
Có tính chất chuyên nghiệp;
Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
Tái phạm nguy hiểm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Cách xác định tội cướp tài sản hay là cưỡng đoạt tài sản ?
Trả lời:
Theo khoản 1 Điều 168, Bộ Luật Hình sự 2015 về tội cướp tài sản
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.“
Theo khoản 1 Điều 170. Tội cưỡng đoạt tài sản
“1. Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.“
Tội cướp tài sản được thực hiện bằng hành vi dung vũ lực, đe dọa ngay tức khắc dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác làm người có trách nhiệm về tài sản lâm vào tình trạng không thể tự vệ được để chiếm đoạt tài sản .
Tội cưỡng đoạt tài sản được thực hiện bằng hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác nhau uy hiếp tinh thần, buộc người có trách nhiệm về tài sản giao nộp tài sản nếu không giao nộp tài sản họ sẽ bị áp dụng dùng vũ lực hoặc sẽ bị gây thiệt hại đến nhân thân. Tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản đều có hành vi đe dọa dùng vũ lực nhưng tính chất đe dọa ở hai tội khác nhau cơ bản. Tội cướp tài sản đe dọa ngay tức khắc sử dụng vũ lực còn tội cưỡng đoạt tài sản đe dọa tương lai sẽ dung vũ lực, nếu bị hại không trao tài sản. Trường hợp đe dọa ngay tức khắc sử dụng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản thì định tội là cướp tài sản; còn đe dọa sẽ dung vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản thì định tội là cưỡng đoạt tài sản.
Tội “Cưỡng đoạt tài sản” quy định tại Điều 170 Bộ luật Hình sự có hành vi khách quan “đe doạ sẽ dùng vũ lực…” là hành vi doạ sẽ gây thiệt hại đến sức khoẻ, tính mạng trong tương lai nếu không thoả mãn yêu cầu chiếm đoạt của người phạm tội. Khác với tội “Cướp tài sản” đe doạ “dùng vũ lực ngay tức khắc” thì tội “Cưỡng đoạt tài sản” là đe doạ “sẽ dùng vũ lực” tức là dùng vũ lực trong tương lai, có khoảng cách về thời gian. Sự đe doạ này không có tính nguy hiểm như tội cướp.
Như vậy hành vi của bạn và B là phạm tội cưỡng đoạt tài sản. Bạn và B đều có đủ năng lực hành vi, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và mục đích của bạn là chiếm đoạt tài sản. Những yếu tố này đã đủ để cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản. Theo đó bạn và bạn của bạn đã đe dọa sử dụng vũ lực với A nhằm uy hiếp tinh thần của A để chiếm đoạt tài sản. Bạn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự như theo quy định tại điều 170 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Theo đó “người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”.