Thừa kế không có di chúc

thừa kế không có di chúc

Theo quy định của pháp luật thì thừa kế là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống.

Tài sản của người chết được gọi là di sản. Qua bài viết này, Công ty TNHH Luật Trần và Liên Danh sẽ hướng dẫn các quy định của bộ luật Dân sự 2015 về các trường hợp chia thừa kế không có di chúc như sau:

Khái niệm thừa kế theo pháp luật

Thừa kế theo pháp luật là phương thức dịch chuyển di sản của người chết cho những người còn sống mà giữa họ với người để lại di sản có một trong ba mối quan hệ (hoặc hôn nhân, hoặc nuôi dưỡng hoặc huyết thống) theo điều kiện thừa kế, hàng thừa kế và trình tự thừa kế mà pháp luật đã quy định.

Đặc điểm của thừa kế theo pháp luật

Người thừa kế theo pháp luật là cá nhân

Đối với thừa kế theo di chúc, người thừa kế có thể là cá nhân hoặc không phải là cá nhân, nhưng người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân. Khi để lại di chúc, người để lại di sản có thể để lại cho bất kì ai kể cả không phải là cá nhân (trừ những trường hợp hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc).

Những quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc đều hướng tới việc bảo vệ tối đa quyền định đoạt tài sản của người có di sản.

Nhưng đối với thừa kế theo pháp luật, khi người để lại di sản không để lại di chúc thì pháp luật dự liệu một số người có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng với người để lại di sản thuộc diện được hưởng di sản.

Pháp luật quy định chung cho mọi người để lại di sản, mọi hoàn cảnh, mọi trường hợp người để lại di sản không định đoạt tài sản bằng di chúc thì di sản sẽ được chia cho những người có một trong ba mối quan hệ trên với người để lại di sản.

Những người đó là những người có quan hệ gần gũi nhất với người để lại di sản: vợ chồng, cha mẹ, các con, ông bà, anh chị em, các cháu nội ngoại, các cụ nội, cụ ngoại, cô dì chú bác cậu ruột, các chắt của người chết.

Chính vì vậy, người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân. Pháp luật quy định hàng thừa kế từ quan hệ gần đến xa theo sự phán đoán ý chí của người để lại di sản. Vì vậy, trừ trường hợp đặc biệt, còn lại phán đoán của pháp luật đa số phù hợp với ý chí của người để lại di sản.

Người thừa kế theo pháp luật chỉ được hưởng di sản theo điều kiện luật định

Nếu như người được hưởng di sản thừa kế theo di chúc chỉ phụ thuộc vào ý chí của người để lại di sản thì để trở thành người thừa kế theo pháp luật đòi hỏi những điều kiện tương đối chặt chẽ.

Trước hết người thừa kế theo pháp luật đương nhiên cần thỏa mãn điều kiện của người thừa kế nói chung là phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế (thời điểm người để lại di sản chết thì người được hưởng di sản vẫn còn sống).

Điều kiện thứ hai là đã thành thai trước thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước thời điểm người để lại di sản chết.

Ngoài ra, có trường hợp người con được thành thai sau khi người cha, mẹ (người để lại di sản) chết nhưng người con đó được sinh ra (có thể do người mẹ trực tiếp sinh ra hoặc do mang thai hộ) và còn sống vẫn có thể được hưởng di sản của người cha, mẹ đó nếu người con đó được sinh ra bởi vật liệu di truyền của người chết ví dụ: các mẫu tinh trùng hoặc trứng của người để lại di sản trước khi chết được lưu trữ) và có văn bản đồng ý về việc sử dụng các vật liệu di truyền.

Bên cạnh điều kiện cần đáp ứng để một người được hưởng thừa kế theo pháp luật như trên còn có điều kiện khác là người đó không thuộc một trong các trường hợp bị tước quyền hưởng di sản.

Những trường hợp này có thể là những hành vi vi phạm pháp luật (nghiêm trọng) của người được hưởng di sản đối với người để lại di sản như hành vi cố ý xâm phạm tính mạng của người để lại di sản hoặc hành vi cố ý xâm phạm tính mạng của  những người cùng được hưởng thừa kế với mình nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản hay hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản…

Hành vi cố ý tước đoạt tính mạng người để lại di sản một cách trái pháp luật tức là muốn gây ra cái chết cho người để lại di sản vì bất kì mục đích gì.

Hành vi cố ý giết người thừa kế khác với mục đích chiếm đoạt di sản của người thừa kế đó có quyền hưởng, thì bị tước quyền thừa kế nhưng một người chỉ bị kết án về hành vi cố ý giết người thừa kế khác, mà không nhằm mục đích chiếm đoạt phần di sản của người thừa kế đó được hưởng thì không bị tước quyền thừa kế.

Bên cạnh đó, nếu người có hành vi phạm tội chỉ bị kết án về hành vi “vô ý” xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác thì cũng không thuộc trường hợp theo quy định của điều luật trên. Nói cách khác, người có hành vi vô ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác vẫn có thể được hưởng di sản thừa kế của người để lại di sản.

Bên cạnh đó, người nào có hành vi ngăn cản việc lập di chúc của người khác là ngăn cản quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản của họ, đồng thời đây bị coi là hành vi trái pháp luật.

Việc cá nhân định đoạt tài sản của mình theo di chúc được pháp luật quy định và bảo hộ, di chúc đã lập phải được tôn trọng, bảo vệ.

Người nào có hành vi giả mạo, sửa chữa di chúc, hủy di chúc của người để lại di sản nhằm mục đích hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản tức là họ đã làm mất đi tính khách quan, trung thực của di chúc, không thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng của người để lại di chúc nên người đó không xứng đáng được hưởng thừa kế.

thừa kế không có di chúc
thừa kế không có di chúc

Một điều kiện nữa của người hưởng di sản thừa kế theo pháp luật là không bị người để lại truất quyền hưởng di sản.

Trong thừa kế theo pháp luật, di sản thừa kế phải được dịch chuyển theo hàng thừa kế và trình tự thừa kế

Diện thừa kế theo pháp luật là phạm vi những người có thể được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật của người chết nếu giữa họ và người chết tồn tại mối quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng tùy thuộc vào quy định của từng quốc gia. Con của người để lại di sản bao giờ cũng là những người đầu tiên được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật của cha mẹ.

Có quốc gia (như Việt Nam) quy định không phân biệt con đẻ và con nuôi trong việc hưởng di sản thừa kế của cha mẹ nhưng cũng có những quốc gia (như nước Nhật) chỉ công nhận quyền hưởng di sản của con đẻ, quyền của con nuôi đối với di sản của cha mẹ không được đề cập tới. Về quyền hưởng di sản thừa kế của nhau giữa vợ và chồng, một số nước trên thế giới như Nhật Bản, Thái Lan… quy định trong những trường hợp khác nhau thì vợ (chồng) được hưởng phần di sản khác nhau, nhưng đối với pháp luật Việt Nam thì người vợ (chồng) thuộc diện thừa kế và sẽ được hưởng 43 một suất thừa kế theo pháp luật của nhau bằng với những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất khác (là cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết).

Hàng thừa kế được hiểu là một nhóm người có quan hệ cùng mức độ gần gũi với người để lại di sản. Các quốc gia trên thế giới đều quy định những người thuộc diện được hưởng di sản thừa kế thành các hàng thừa kế khác nhau.

Việc phân chia di sản thừa kế theo pháp luật còn phải theo một trình tự nhất định về thứ tự phân chia lần lượt từ hàng thừa kế đầu tiên đến hàng thừa kế tiếp theo, dựa trên mức độ gần gũi của những người thừa kế với người để lại di sản.

Thừa kế theo pháp luật

Theo Điều 649 Bộ luật Dân sự 2015, thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.

Thừa kế theo pháp luật theo theo Bộ luật Dân sự 2015

Người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân, những người có quyền thừa kế di sản của người chết theo quy định của pháp luật.

Việc xác định người thừa kế theo hàng thừa kế dựa trên ba mối quan hệ: hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng. Căn cứ Khoản 1, Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015, những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Về quan hệ thừa kế giữa vợ – chồng, khi một trong hai mất thì người còn lại sẽ được hưởng di sản thừa kế.

Về quan hệ thừa kế giữa cha đẻ, mẹ đẻ – con đẻ, con đẻ được thừa kế di sản của cha đẻ, mẹ đẻ và ngược lại. Đối với con riêng và bố dượng, mẹ kế phải đáp ứng điều kiện có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế thế vị và thừa kế trong quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ.

Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.

Lưu ý trong quan hệ thừa kế giữa anh ruột, chị ruột – em ruột, anh, chị, em ruột có thể là cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Người làm con nuôi người khác vẫn được hưởng thừa kế hàng thứ hai của anh, chị, em ruột mình.

Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bẳng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Trường hợp áp dụng

Căn cứ khoản 1, Điều 650 Bộ luật Dân sự 2015, những trường hợp áp dụng chia thừa kế theo pháp luật bao gồm:

Trường hợp thứ nhất: Không có di chúc.

Trường hợp thứ hai: Có di chúc nhưng di chúc không hợp pháp. Di chúc không hợp pháp sẽ không có hiệu lực pháp luật, rơi vào trường hợp vi phạm điều kiện chung của giao dịch dân sự theo Điều 177 và điều kiện về di chúc hợp pháp theo Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015.

Trường hợp thứ ba: Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Trường hợp thứ tư: Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản.

Trường hợp thứ năm: Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà từ chối nhận di sản.

Trường hợp thứ sáu: Phần di sản không được định đoạt trong di chúc.

Nguyên tắc phân chia di sản theo pháp luật

Việc phân chia di sản theo pháp luật được thực hiện theo quy định của pháp luật, như phân chia đều nhau, theo thứ tự hàng thừa kế, phân chia cho những những người nằm trong diện thừa kế.

Phương thức phân chia gồm có phân chia theo hiện vật và theo giá trị hiện vật, nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.

Như vậy, tùy vào từng trường hợp mà pháp luật quy định về người thừa kế, điều kiện áp dụng, trường hợp áp dụng và thực hiện phân chia di sản.

Nếu các bạn đang cần tìm một công ty tư vấn luật uy tín, nhanh chóng và hiệu quả, vui lòng liên hệ với LUẬT TRẦN VÀ LIÊN DANH! để được tư vấn một cách nhanh chóng và tốt nhất!

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139