Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, khi bị áp dụng biện pháp ngăn chặn này, người bị tạm giam bị cách ly khỏi xã hội một thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền con người, quyền công dân như quyền tự do thân thể, cư trú, đi lại… Vậy thời hạn gia hạn tạm giam bao nhiêu lâu? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé!
Thời hạn tạm giam là gì ?
Thời hạn tạm giam là thời hạn do pháp luật quy định được phép tạm giam bị can, bị cáo để phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định thời hạn tạm giam để điều tra không quá 2 tháng đối với tội ít nghiêm trọng, không quá 3 tháng đối với tội nghiêm trọng, không quá 4 tháng đối với tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất 10 ngày trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trở lên và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu trở lên có quyền gia hạn tạm giam đối với tội ít nghiêm trọng (một lần không quá 1 tháng), tội nghiêm trọng (hai lần trong đó lần đầu không quá 2 tháng, lần hai không quá 1 tháng), tội rất nghiêm trọng (một lần không quá 3 tháng), tội đặc biệt nghiêm trọng (một lần không quá 4 tháng).
Ngoài ra, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền gia hạn tạm giam lần thứ hai (không quá 2 tháng đối với tội rất nghiêm trọng, không quá 4 tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng). Trong trường hợp thời hạn tạm giam lần hai đối với tội đặc biệt nghiêm trọng đã hết và vụ án có nhiều tình tiết rất phức tạp mà không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn tạm giam lần ba không quá 4 tháng. Theo quy định trên, thời hạn tạm giam để điều tra tối đa không quá 3 tháng đối với tội ít nghiêm trọng; 6 tháng đối với tội nghiêm trọng; 9 tháng đối với tội rất nghiêm trọng; 16 tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng.
Riêng đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, trong trường hợp cần thiết Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn tạm giam thêm ngoài 146 tháng. Thời hạn tạm giam thêm không được Bộ luật tố tụng hình sự quy định mà tuỳ từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm và yêu cầu của việc điều tra mà Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định, Luật sư hình sự giỏi.
Thời hạn tạm giam để Viện kiểm sát quyết định việc truy tố không quá 20-ngày đối với tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng; không quá 30 ngày đối với tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp cần thiết phải có thêm thời gian để hoàn thành bản cáo trạng, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn thêm, nhưng không quá 10 ngày đối với tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng; không quá 15 ngày đối với tội rất nghiêm trọng; không quá 30 ngày đối với tội đặc biệt nghiêm trọng.
Thời hạn tạm giam để toà án chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều 277 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử thì Hội đồng xét xử ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa.
Mục đích tạm giam
Tạm giam đuợc áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự. Vì vậy, ngoài mục đích chung là ngăn chặn không để bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng biện pháp này còn có mục đích riêng nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng.
Chẳng hạn, việc tạm giam đối với bị can trong giai đoạn điều tra tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan điều tra có thể tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can vào bất cứ khi nào nếu thấy càn thiết mà không phải mất thời gian triệu tập nhiều lần, đồng thời cũng giúp cho việc quản lí, giám sát bị can được chặt chẽ; việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án nhằm đảm bảo cho việc thi hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật được thuận lợi.
Các trường hợp bị tạm giam
Theo quy định của Điều 119 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì bị can, bị cáo có thể bị tạm giam trong các trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm các tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng
Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù.
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:
Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù.
Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm.
c) Bị can, bị cáo phạmtội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
d) Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng sẽ bị tạm giam nếu thuộc một trong các trường hợp:
Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
Tiếp tục phạm tội;
Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này; tư vấn luật hình sự chi tiết
Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Thời hạn tạm giam và gia hạn tạm giam đối với bị can?
Theo quy định tố tụng hình sự hiện hành thì những tội danh có khung hình phạt từ 15 năm trở lên tương ứng với tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng mới xem xét áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam. Còn những tội danh khung hình phạt dưới 15 năm là ít nghiêm trọng và nghiêm trọng chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam khi có dấu hiệu cho thấy bị can có nơi cư trú không rõ ràng, nếu không tạm giam bị can sẽ tiếp tục phạm tội, cản trở gây khó khăn cho công tác điều tra, có nguy cơ bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ…
Trường hợp cơ quan điều tra xác định không có căn cứ để thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị can, trong khi tội danh và khung hình phạt mà bị can bị khởi tố chỉ là tội có tính chất ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, có thể xuất phát từ việc cơ quan điều tra cho rằng trong quá trình điều tra bị can không thành khẩn, không nhận tội và có căn cứ xác định biện pháp ngăn chặn là tạm giam tại khoản 2, Điều 119 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Cũng theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật tố tụng Hình sự thì đã hết thời gian tạm giam, nên cơ quan điều tra phải căn cứ khoản 2, Điều 173 Bộ luật tố tụng Hình sự để gia hạn tạm giam để tiếp tục điều tra. Do có căn cứ xác định vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam, trường hợp này chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam, Luật sư bào chữa hình sự chi tiết.
Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau: Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 01 tháng; đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 02 tháng; đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 03 tháng; đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 02 lần, mỗi lần không quá 04 tháng.
Căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 173 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì “đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 01 lần không quá 02 tháng” việc gia hạn tạm giam chỉ được thực hiện 01 lần. Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người bị tạm giam phải được trả tự do. Trường hợp xét thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Ngoài cơ quan điều tra, thì thẩm quyền gia hạn tạm giam còn được thực hiện bởi Viện kiểm sát, quy định tại khoản 3, Điều 173 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng.
Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra cấp quân khu thụ lý điều tra thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam lần thứ nhất quy định tại điểm a khoản này đã hết mà chưa thể kết thúc việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua địa chỉ hotline của Công ty luật để được giải đáp và tư vấn hiệu quả nhất.