Trước đây khi khoa học công nghệ chưa phát triển, hầu hết các giấy tờ đều phải được thực hiện ký trực tiếp vào văn bản, nhưng hiện nay đối với các trường hợp chủ thể ở vị trí xa, không thuận tiện cho việc đi lại thì việc các nhận được thực hiện thông qua chữ ký điện tử. Tuy nhiên, việc giả mạo chữ ký cũng xảy ra khá nhiều vì nhiều mục đích khác nhau và thủ đoạn tinh vi hơn. Thông thường chúng ta thường nhầm lẫn các căn cứ để xử lý vi phạm hành chính và khởi tố hình sự vì các dấu hiệu của hai lĩnh vực này tương đối giống nhau và chỉ khác nhau về tính chất và mức độ thiệt hại của hành vi gây ra. Vậy hành vi giả mạo chữ ký trách nhiệm như thế nào?
Trách nhiệm hành chính
Căn cứ vào từng tính chất của từng vụ việc, mục đích của hành vi giả mạo chữ ký mà người giả mạo chữ ký có thể bị xử lý bằng các biện pháp xử phạt hành chính được quy định tại Điều 21 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 gồm:
– Cảnh cáo
– Phạt tiền
– Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn
– Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính
– Trục xuất
Người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật giả mạo chữ ký người khác có thể bị xử lý hành chính, bao gồm hình phạt chính là phạt tiền (mức xử phạt tiền phụ thuộc vào từng lĩnh vực mà người đó giả mạo chữ ký) và các hình phạt bổ sung, các biện pháp khắc phục hậu quả (nếu có). Cụ thể một số trường hợp như:
Thứ nhất, giả mạo chữ ký trong hoạt động chứng thực
Được quy định trong Nghị định 110/2013/NĐ-CP và được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 67/2015/NĐ-CP,hành vi giả mạo chữ ký trong hoạt động chứng thực là việc người nào có hành vi giả lại chữ ký của người thực hiện chứng thực. Khi có hành vi vi phạm pháp luật này, người thực hiện hành vi sẽ bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng kèm theo biện pháp khắc phục hậu quả là hủy bỏ các giấy tờ có chữ ký giả đó.
Thứ hai, giả mạo chữ ký trong hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm
Trong hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm, người nào mà có hành vi giả mạo chữ ký của người khác để làm đơn yêu cầu đăng ký hoặc các loại văn bản thông báo giao dịch đảm bảo thì bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng. Đây là mức xử phạt được quy định trong Điều 45 Nghị định 110/2013/NĐ-CP và được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 67/2015/NĐ-CP.
Thứ ba, giả mạo chữ ký trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, cụ thể là trong lĩnh vực quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, người nào có hành vi giả mạo chữ ký của tác giả trên tác phẩm của do tác giả sáng tác ra thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng. Đây là mức xử phạt hành chính được quy định trong Nghị định 131/2013/NĐ-CP xử phạt hành chính về quyền tác giả và quyền liên quan.
Thứ tư, giả mạo chữ ký trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán
Đối với hành vi giả mạo chữ ký trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán độc lập được quy định trong Nghị định 41/2018/NĐ-CP thì: người nào thực hiện hành vi giả danh người có thẩm quyền ký hoặc người được người có thẩm quyền ủy quyền để ký vào chứng từ kế toán thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
Luật sư hình sự tư vấn trách nhiệm hình sự của hành vi Giả mạo chữ ký
Theo quy định tại điều 359 có quy định về trách nhiệm hình sự của Tội giả mạo trong công tác cụ thể như sau:
Điều 359. Tội giả mạo trong công tác
1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu;
b) Làm, cấp giấy tờ giả;
c) Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Người phạm tội là người có trách nhiệm lập hoặc cấp các giấy tờ, tài liệu;
c) Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 02 giấy tờ giả đến 05 giấy tờ giả.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 05 giấy tờ giả đến 10 giấy tờ giả;
b) Để thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 11 giấy tờ giả trở lên;
b) Để thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
Hành vi giả mạo chữ ký của người khác mà gây nguy hiểm cho xã hội và đủ các yếu tố cấu thành nên tội phạm thì người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Bộ luật Hình sự hiện hành.
Thứ nhất, giả mạo chữ ký có thể phạm tội giả mạo trong công tác
Theo quy định trong Bộ luật hình sự về tội này đó là khi cá nhân vì vụ lợi cá nhân hoặc các động cơ cá nhân khác mà giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn để lợi dụng chức vụ, quyền hạn của người đó thì bị phạt từ 01 năm tù giam đến 05 năm tù giam. Người phạm tội này cần có đủ yếu tố cấu thành nên tội phạm như sau:
Về chủ thể: đủ điều kiện về độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự. Đối với tội này còn đặc biệt hơn so với các loại tội phạm khác vì chủ thể của tội này là: Người thực hiện hành vi phạm tội phải là người có chức vụ, quyền hạn ở trong một lĩnh vực nhất định. Và người phạm tội đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà mình có để sửa chữa hoặc làm sai lệch đi nội dung giấy tờ, tài liệu hoặc làm ra, cấp giấy tờ giả hoặc giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn khác.
Nếu người có chức vụ, quyền hạn mà không trực tiếp thực hiện hành vi, chỉ lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để tiếp tay cho người khác để sửa chữa hoặc làm sai lệch đi nội dung giấy tờ, tài liệu hoặc làm ra, cấp giấy tờ giả hoặc giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn thì tùy trường hợp cụ thể mà có thể bị quy kết trách nhiệm hình sự về cả tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc tội tham ô.
Về khách thể của tội phạm:
Đối tượng tác động của tội giả mạo trong công tác là giấy tờ, tài liệu do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp ra hoặc làm ra.
Khách thể của tội là mối quan hệ giữa cơ quan, tổ chức làm ra/ cấp ra những giấy tờ, tài liệu bị xâm hại khiến cho những giấy tờ, tài liệu bị sai lệch, cơ quan, tổ chức đó bị suy yếu, mất uy tín.
Về mặt khách quan:
Đó là việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn của người có thẩm quyền dẫn đến hậu quả cho xã hội. Tuy nhiên, hậu quả không phải là không phải là dấu hiệu bắt buộc vì cứ có hành vi vi phạm đã cấu thành tội phạm.
Về mặt chủ quan:
Người thực hiện hành vi giả mạo với lỗi cố ý trực tiếp, tức là, mặc dù nhận thức được rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và đã thấy trước được hậu quả sẽ xảy ra nhưng mong muốn cho hậu quả xảy ra.
Đối với tội này, động cơ phạm tội là dấu hiệu bắt buộc, người thực hiện hành vi giả mạo chữ ký phải nhằm vụ lợi cá nhân hoặc có động cơ cá nhân khác. Chưa có một văn bản hướng dẫn giải thích cụ thể nhưng dựa vào các văn bản dưới luật và với tinh thần điều luật thì “vụ lợi cá nhân” và “động cơ cá nhân khác” được hiểu là những lợi ích về vật chất hoặc tinh thần mà người phạm tội thu được từ hành vi vi phạm pháp luật của mình.
Thứ hai, giả mạo chữ ký có thể phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Khi tham gia vào quan hệ giao dịch dân sự mà người nào thực hiện thủ đoạn đoạn gian dối như hành vi giả mạo chữ ký để lừa người khác nhằm chiếm đoạt tài sản thì có thể phạm vào tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Người thực hiện hành vi đủ điều kiện về tuổi (từ đủ 16 tuổi trở lên đối với tội này) và năng lực trách nhiệm hình sự. Người thực hiện hành vi xâm phạm đến quan hệ sở hữu, tức xâm phạm đến tài sản của người khác.
Ví dụ như: giả mạo chữ ký để thực hiện các giao dịch nhằm chiếm đoạt tài sản, gian dối, giả mạo di chúc hay giả mạo người khác ký xác nhận từ chối di sản để được nhận di sản thừa kế; gian dối trong việc thực hiện hợp đồng mua bán để chiếm đoạt tài sản từ chủ sở hữu hoặc người bên thứ ba đang sử dụng ngay tình tài sản đó,… tất cả những hành vi này đều có thể là hành vi vi phạm pháp luật bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác.
Tội này được thể hiện bằng hành vi “chiếm đoạt”, tức người phạm tội chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối. Đây là lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội hoàn toàn ý thức được về hậu quả, mong muốn thậm chí lên kế hoạch để hậu quả xảy ra. Tùy thuộc vào hậu quả (số tiền chiếm đoạt được và các tình tiết định tội khá), người phạm tội sẽ chịu mức xử phạt tương ứng được quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi năm 2017.
Giả mạo chữ ký để chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chịu trách nhiệm hình sự?
Giả mạo chữ ký để chuyển nhượng quyền sử dụng đất phạm tội gì?
Giả mạo chữ ký để chuyển nhượng quyền sử dụng đất có thể phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Điều 174 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Vì khi tham gia vào quan hệ giao dịch dân sự mà người nào thực hiện thủ đoạn đoạn gian dối như hành vi giả mạo chữ ký để lừa người khác nhằm chiếm đoạt tài sản thì có thể phạm vào tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Người thực hiện hành vi đủ điều kiện về tuổi (từ đủ 16 tuổi trở lên đối với tội này) và năng lực trách nhiệm hình sự. Người thực hiện hành vi xâm phạm đến quan hệ sở hữu, tức xâm phạm đến tài sản của người khác.
Tội này được thể hiện bằng hành vi “chiếm đoạt”, tức người phạm tội chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối. Đây là lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội hoàn toàn ý thức được về hậu quả, mong muốn thậm chí lên kế hoạch để hậu quả xảy ra.
Khung hình phạt
Tùy thuộc vào hậu quả (số tiền chiếm đoạt được và các tình tiết định tội khác), người phạm tội sẽ chịu mức xử phạt tương ứng được quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:a) Có tổ chức;b) Có tính chất chuyên nghiệp;c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;b) (được bãi bỏ)c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;b) (được bãi bỏ)c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Hậu quả pháp lý khi hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bị vô hiệu do giả mạo chữ ký
Căn cứ Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 thì hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu là:
Không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tội giả mạo chữ ký
Theo tại Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:
1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Như vậy, nếu có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trở lên theo quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 nêu trên, người thực hiện hành vi phạm tội có thể được xem xét giảm nhẹ hình phạt và tòa án sẽ xem xét và quyết đinh mức hình phạt cuối cùng.
Như vậy, khi làm việc với cơ quan chức năng, người phạm tội phải thành khẩn khai báo và hợp tác để được hưởng chính sách khoan hồng của nhà nước. Bên cạnh đó, cần có sự tham gia của Luật sư bào chữa cho bị cáo. Việc góp mặt của luật sư khi tham gia vụ án với tư cách người bào chữa không chỉ xác định chính xác tội danh mà còn khai thác tối đa các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị can, bị cáo.
Nếu như người giả mạo đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã sử dụng hợp đồng giả mạo này làm căn cứ để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì việc cấp giấy chứng nhận này là trái quy định của pháp luật, bạn có thể khiếu nại đến chính cơ quan đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó và yêu cầu thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận này.
Trên đây là một số nội dung tư vấn của chúng tôi về hành vi giả mạo chữ ký, nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.