Xét xử vụ án hình sự là một giai đoạn độc lập trong tố tụng hình sự Việt Nam. Cơ sở pháp lý làm phát sinh thủ tục phúc thẩm chính là việc có kháng cáo, kháng nghị. Việc thực hiện giải quyết kháng cáo, kháng nghị được thực hiện tại phiên tòa phúc thẩm và được thực hiện trong một thời hạn, thời gian mà pháp luật quy định. Vậy, để có thể hiểu được thời gian xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là bao lâu, mời quý bạn đọc tham khảo bài viết dưới đây:
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là gì?
Xét xử phúc thẩm là giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị nhằm khắc phục sai lầm của tòa án cấp sơ thẩm, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật bảo vệ lợi ích nhà nước quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan tổ chức cá nhân.
Pháp luật quy định nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm phúc thẩm nhằm đảm bảo cho tòa án xét xử đúng người, đúng tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Do đó, bản án, quyết định sơ thẩm sẽ chưa có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án hoặc ra quyết định mà có thể bị kháng cáo, kháng nghị để xét xử lại hoặc xét lại ở cấp phúc thẩm. Theo đó, khi không đồng ý với quyết định tại bản án sơ thẩm, việc kiểm sát, bị cáo, bị hại, đương sự có quyền tiến hành khiếu nại, kháng nghị để tòa án phúc thẩm tiến hành xem xét lại bản án.
Phạm vi xét xử phúc thẩm
Về nguyên tắc, toà án cấp phúc thẩm xem xét phần nội dung của bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, toà án cấp phúc thẩm cũng có thể xem xét các phần khác của bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị. Những phần của bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật nên toà án cấp phúc thẩm chỉ xem xét nếu thấy cần thiết.
Để bảo đảm sự công bằng và nhân đạo, toà án cấp phúc thẩm có thể xem xét phàn bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị nếu có điểm cần giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo ((Điều 345 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015)
Thời gian xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là bao lâu?
Hiện nay, việc xét xử phúc thẩm vụ án hình sự phải được tiến hành trong một khoảng thời gian do pháp luật quy định nhằm đảm bảo được việc vụ án sẽ được giải quyết, tránh tình trạng dồn ứ, chậm tiến hành xét xử lại khiến cho quyền và lợi ích của đương sự không được đảm bảo. Theo đó, thời gian xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm được quy định như sau:
- Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 60 ngày; Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.
- Trong thời hạn 45 ngày đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu, 75 ngày đối với vụ án Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết định: Đình chỉ xét xử phúc thẩm; hoặc Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
- Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa phúc thẩm.
- Chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa, Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp, người bào chữa, bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị.
Như vậy có thể thấy rằng, thời gian xét xử phúc thẩm vụ án hình sự được pháp luật quy định một cách đầy đủ và cụ thể nhằm đảm bảo cho việc phiên tòa phúc thẩm phải được mở để giải quyết kháng cáo, kháng nghị từ những chủ thể có yêu cầu để vừa đảm bảo được lợi ích của họ được giải quyết vừa đảm bảo cho việc xem xét lại vụ án nhằm xử đúng người đúng tội, tránh sai sót trong quá trình phiên tòa sơ thẩm tuyên sai.
Như vậy, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm được pháp luật quy định một cách cụ thể, còn thời gian xét xử phúc thẩm vụ án hình sự sẽ căn cứ vào tình tiết của vụ án, căn cứ vào quá trình thảo luận và xem xét của thẩm phán, hội đồng xét xử… thì thời gian của mỗi vụ xét xử phúc thẩm đối với vụ án nghiêm trọng hay không quá nghiêm trọng sẽ có phần khác nhau.
Về việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn và biện pháp cưỡng chế (Điều 347 Bộ luật tố tụng hình sự).
- Đối với biện pháp tạm giam:
Thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ trước khi mở phiên toà thuộc về chánh án, phó chánh án toà án, tại phiên toà thuộc về hội đồng xét xử phúc thẩm. Toà án cấp phúc thẩm có thể áp dụng biện pháp tạm giam để chuẩn bị xét xử, để hoàn thành việc xét xử, để bảo đảm thi hành án và để bảo đảm cho viện kiểm sát, toà án cấp sơ thẩm thụ lí lại vụ án.
Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm. Trường hợp còn thời hạn tạm giam mà xét thấy cần tiếp tục tạm giam thì toà án cấp phúc thẩm sử dụng thời hạn tạm giam theo quyết định tạm giam của toà án cấp sơ thẩm. Trường hợp đã hết thời hạn tạm giam theo quyết định tạm giam của toà án cấp sơ thẩm thì toà án cấp phúc thẩm ra quyết định tạm giam mới. Đối với bị cáo đang bị tạm giam, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử thì hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam cho đến khi kết thúc phiên toà.
Đối với bị cáo đang bị tạm giam bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên toà thời hạn tạm giam đã hết thì hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án, trừ trường hợp bị cáo bị xử phạt tù nhưng được hưởng án treo, thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời gian bị cáo đã bị tạm giam. Đối với bị cáo không bị tạm giam nhưng bị xử phạt tù thì hội đồng xét xử có thể ra quyết định bắt tạm giam bị cáo ngay sau khi tuyên án.
Thời hạn tạm giam là 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Trường hợp huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại mà thời hạn tạm giam đối với bị cáo đã hết và xét thấy cần phải tiếp tục tạm giam bị cáo thì hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo cho đến khi viện kiểm sát hoặc toà án cấp sơ thẩm thụ lí lại vụ án.
- Đối với các biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế khác như bảo lãnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh, áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong toả tài khoản, thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ trước khi mở phiên toà thuộc về thẩm phán chủ toạ phiên toà, tại phiên toà thuộc về hội đồng xét xử phúc thẩm.
Sự có mặt của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
– Sự có mặt của thành viên hội đồng xét xử phúc thẩm và thư kí toà án (Điều 349 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015)
Phiên toà phúc thẩm chỉ được tiến hành khi có đủ thành viên hội đồng xét xử và thư kí toà án. Theo nguyên tắc xét xử liên tục, các thành viên hội đồng xét xử phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên toà. Trường hợp có thẩm phán không tiếp tục tham gia xét xử vụ án nhưng có thẩm phán dự khuyết tham gia phiên toà từ đầu thì người này được thay thế làm thành viên hội đồng xét xử.
Trường hợp thẩm phán chủ toạ phiên toà không tiếp tục tham gia xét xử được thì thẩm phán là thành viên hội đồng xét xử làm chù toạ phiên toà và thâm phán dự khuyết được bổ sung làm thành viên hội đồng xét xử.
– Sự có mặt của kiểm sát viên (Điều 350 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015)
Kiểm sát viên viện kiểm sát cùng cấp với toà án cấp phúc thẩm thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên toà. Vì vậy, sự có mặt của kiểm sát viên tại phiên toà là bắt buộc. Vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì có thể có nhiều kiểm sát viên. Trường hợp kiểm sát viên không thể có mặt tại phiên toà, bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục tiến hành tố tụng thì kiểm sát viên dự khuyết có mặt tại phiên toà từ đầu được thay thế để thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên toà.
– Sự có mặt của những người khác (Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015)
Người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị được triệu tập thì phải có mặt tại phiên toà.
Sự có mặt của người bào chữa tại phiên toà phúc thẩm vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của họ. Toà án cấp phúc thẩm vẫn tiến hành xét xử trong trường hợp người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lí do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan nhưng bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa; người bào chữa vắng mặt không vì lí do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; người bào chữa chỉ định vắng mặt nhưng bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa.
Người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị là bị hại, đương sự và người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự vắng mặt không vì lí do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì toà án cấp phúc thẩm vẫn tiến hành xét xử. Trong trường hợp những người này vắng mặt vì lí do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì toà án cấp phúc thẩm vẫn có thể tiến hành xét xử nhung không được ra bản án, quyết định không có lợi cho bị hại, đương sự.
Bị cáo có kháng cáo hoặc bị kháng cáo, bị kháng nghị nếu vắng mặt vì lí do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì toà án cấp phúc thẩm có thể vẫn tiến hành xét xử nhưng không được ra bản án, quyết định không có lợi cho bị cáo. Nếu sự vắng mặt của bị cáo vì lí do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan mà không gây trở ngại cho việc xét xử thì toà án cấp phúc thẩm vẫn tiến hành xét xử.
Sự tham gia phiên toà của những người khác (người không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch) do toà án cấp phúc thẩm quyết định khi xét thấy cần thiết (Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự).
Trên đây là một số nội dung về thời gian xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo quy định của pháp luật, nếu có vấn đề gì, quý khách có thể liên hệ với Luật Trần và Liên Danh để hỗ trợ nhanh nhất.