Hoạt động xét xử được coi là một trong những hoạt động có vai trò quan trọng và có tính đặc thù, hoạt động xét xử hiện nay do Tòa án thực hiện vai trò đảm nhiệm. Do đó, yêu cầu tối cao và cũng là cái mốc để đánh giá hiệu quả công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện và đầy đủ, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Bên cạnh với việc giải quyết vụ án hình sự, pháp luật Việt Nam cho phép Tòa án giải quyết cả vấn đề dân sự liên quan đến tội phạm. Mọi người đều được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khỏe mà cả về tài sản, danh dự, nhân phẩm. Yêu cầu xét xử đối với vụ án hình sự không chỉ là giải quyết tốt về mặt hình sự mà cần giải quyết tốt cả vấn đè dân sự có liên quan.
Cơ sở pháp lý
Căn cứ Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) tuân thủ pháp luật về thực hiện chế độ giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được quy định như sau:
“Điều 30. Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.”
Nội dung nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
Trên thực tế hiện nay, có rất nhiều trường hợp làm phát sinh không chỉ có quan hệ pháp luật hình sự mà còn làm phát sinh quan hệ dân sự, tố tụng hình sự. Và đó là quan hệ bồi thường thiệt hại, bồi hoàn. Trong trường hợp đó, BLHS quy định quy định nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
Ví dụ: A đang lưu thông trên đường và không may va vào B, hai bên có xảy ra cãi vã qua lại, trong lúc đang xảy ra tranh cãi A đã nhìn thấy và nhặt ngay viên gạch gần đó đập vào đầu B khiến B phải nhập viện, theo kết quả giám định cho thấy sức khỏe của B đã bị suy giảm 20 %. Như vậy, với trường hợp trên A sẽ bị khởi tố về hành vi cố ý gây thương tích đối với B và phải bồi thường tổn thất về sức khỏe cho B.
Như vậy, vấn đề dân sự trong vụ án hình sự bao gồm việc đòi trả lại tài sản bị chiếm đoạt, đòi bồi thường giá trị tài sản do bị can, bị cáo chiếm đoạt nhưng bị mất, hoặc bị hủy hoại, buộc phải sửa chữa tài sản bị hư hỏng, đòi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại do tài sản bị chiếm đoạt. Đòi bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
Có thể thấy, giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là một trong những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS, nó chứa đựng những nội dung thể hiện phương châm, định hướng của Nhà nước ta là giải quyết vấn đề dân sự cùng với trách nhiệm hình sự trong vụ án hình sự, không tách riêng vấn đề dân sự để giải quyết riêng theo thủ tục tố tụng dân sự như pháp luật của một số nước trên thế giới. Nguyên tắc này chi phối toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với các vụ án có vấn đề dân sự nảy sinh do việc thực hiện tội phạm.
Vì vậy trong quá trình tố tụng, ngoài việc phải chứng minh và giải quyết phần trách nhiệm hình sự, các CQTHTT còn phải chứng minh và giải quyết cả phần trách nhiệm dân sự trong một vụ án một cách chính xác, khách quan, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Nguyên tắc này không những giải quyết được triệt để, khách quan những quan hệ dân sự phát sinh do hành vi phạm tội gây ra mà còn góp phần làm sáng tỏ những nội dung thuộc trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong việc định tội danh và định khung hình phạt hoặc việc khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội đó gây ra.
Phần dân sự trong vụ án hình sự thường là việc đòi trả lại tài sản bị chiếm đoạt; đòi bồi thường giá trị tài sản do tài sản bị chiếm đoạt nhưng đã bị mất hoặc bị hủy hoại; buộc phải sửa chữa tài sản bị hư hỏng; đòi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại do tài sản bị chiếm đoạt, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng; đòi bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm…
Về nguyên tắc chung phần dân sự trong vụ án hình sự phải được giải quyết cùng với xem xét về phần hình sự trong cùng vụ án hình sự. Chỉ được tách để giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự bằng một vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự khi có yêu cầu, nếu “chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự”
– “Chưa có điều kiện chứng minh” được hiểu là các trường hợp như: Chưa tìm được, chưa xác định được người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự; người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự chưa có yêu cầu; người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự đã có yêu cầu nhưng không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu của mình theo yêu cầu của các CQTHTT nói chung và của Tòa án nói riêng; người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự vắng mặt tại phiên tòa và sự vắng mặt của họ thật sự trở ngại cho việc giải quyết việc giải quyết phần dân sự.
– “Không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự” được hiểu là việc tách để giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự nếu việc tách đó không liên quan hoặc không ảnh hưởng đến việc xác định cấu thành tội phạm, đến việc xem xét các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.
Thẩm quyền giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự ở giai đoạn xét xử sơ thẩm
Bộ luật Tố tụng hình sự không có riêng điều luật quy định về thẩm quyền giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Pháp luật không quy định cụ thể được thực hiện ở giai đoạn nào trong quá trình tố tụng mà chỉ quy định việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành ‘cùng’ với việc giải quyết vụ án hình sự.
Do vậy cần phải hiểu trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng cùng lúc giải quyết các vấn đề hình sự và các vấn đề dân sự. Giai đoạn xét xử sơ thẩm thì cần xác định chỉ có Tòa án là chủ thể duy nhất có thẩm quyền giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự bởi vì xét xử là chức năng đặc thù của Tòa án. Tòa án sẽ xét xử toàn bộ nội dung vụ án.
Như vậy, trước khi ra bản án, Hội đồng xét xử phải xem xét, giải quyết các vấn đề có liên quan đến quyền lợi của chủ thể bị thiệt hại (bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan), xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ thể phải có nghĩa vụ bồi thường (bị cáo, bị đơn dân sự, người có nghĩa vụ liên quan).
Phát sinh việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự phải được thực hiện với tư cách là quyền yêu cầu của người tham gia tố tụng. Cần phải hiểu, việc này chỉ phát sinh khi có yêu cầu từ phía bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và viện kiểm sát. Trên thực tế xét xử vụ án hình sự ở giai đoạn sơ thẩm, Tòa án thông thường sẽ giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự mặc dù người gia tố tụng không có yêu cầu giải quyết.
Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định: “Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”. Do vậy, thời hạn để bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và viện kiểm sát yêu cầu giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là 03 (ba) năm.
Trình tự, thủ tục giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định cụ thể trình tự, thủ tục giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Do vấn đề dân sự được giải quyết đồng thời với vụ án hình sự, vì vậy, việc giải quyết này sẽ tuân theo trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự.
Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự có điểm giống và khác so với thủ tục giải quyết vụ án dân sự:
(i) Thứ nhất, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, nghĩa vụ chứng minh, thu thập chứng cứ thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Người có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại được sử dụng kết quả đó của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự mà không cần phải chứng minh mức độ thiệt hại hoặc giá trị tài sản.
(ii) Thứ hai, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự không có thủ tục hòa giải. Bộ luật tố tụng hình sự không quy định về thủ tục hòa giải tại Tòa án để các bên hòa giải, thương lượng với nhau. Trường hợp họ tự thỏa thuận được với nhau và nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội thì Tòa án cũng không ra quyết định công nhận sự thỏa thuận này. Theo nguyên tắc trong pháp luật dân sự, cần tôn trọng quyền quyết định tự định đoạt của các bên
Giải quyết vấn đề dân sự ngay trong vụ án hình sự có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, góp phần vào việc bảo đảm cho quá trình tiến hành tố tụng được thực hiện một cách thống nhất, là cơ sở quan trọng cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi tham gia tố tụng hình sự, bảo đảm mọi hành vi gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe tài sản của công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội đều phải bồi thường và xử lý kịp thời; góp phần vào viên, giáo dục và tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức và mọi công dân có ý thức tuân theo pháp luật và tích cực tham gia vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm và dân chủ hóa quá trình tiến hành tố tụng, có ý nghĩa cho việc định hướng, xây dựng pháp luật tố tụng hình sự.