Bất chấp pháp luật, tìm mọi cách thanh toán nhau để giải quyết mâu thuẫn trong các mối quan hệ xã hội, thời gian qua, tình trạng tội phạm “Cố ý gây thương tích” ngày càng liều lĩnh, manh động, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân.
Vậy điều khoản tội cố ý gây thương tích được quy định như thế nào để răn đe tình trạng này. Hãy cùng tìm hiểu.
Quy định chung về cố ý gây thương tích
Cố ý gây thương tích là hành vi làm tổn hại đến sức khỏe của người khác, được thể hiện dựa vào những thương tích cụ thể.
Theo quy định của pháp luật hiện hành tội cố ý gây thương tích phổ biến được chia thành các tội danh như sau:
- Tội cố ý gây thương tích được quy định tại (Điều 134 Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017)
- Tội cố gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác trong trạng thái tinh thần kích động mạnh (Điều 135 Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017)
- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017)
- Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 137 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017)
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội quy định tại Điều 134 BLHS 2015 có hành vi tác động trái pháp luật đến thân thể người khác gây thiệt hại dưới dạng thương tích hoặc sức khỏe theo quy định của pháp luật
Dấu hiệu của tội phạm này như sau:
- Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi trái pháp luật tác động đến thân thể của người khác
- Hậu quả gây ra bởi hành vi là nguy hiểm cho xã hội, để lại thương tích cho nạn nhân gây suy giảm sức khỏe cho họ như rách cơ, dập lá lách, gãy tay, gãy chân…
- Là tội có cấu thành tội phạm vật chất nên hậu quả là dấu hiệu chính của định tội.
- Dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp phạm tội nguy hiểm quy định tại (Khoản 1 Điều 134 BLHS 2015)
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Theo quy định tại Điều 135 BLHS 2015, là hành vi cố ý gây thương tích cho người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên trong trạng thái bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra.
Dấu hiệu định tội của trường hợp này là:
- Hành vi khách quan của tội phạm là cố ý tác động trái pháp luật đến thân thể người khác;
- Người phạm tội thực hiện hành vi trong trạng thái bị kích động mạnh;
- Nguyên nhân gây ra tinh thần kích động mạnh là do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra. Hậu quả thương tích gây ra từ 31% trở lên.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
Tội phạm quy định tại Điều 136 BLHS 2015 được thực hiện trong trường hợp vì bảo vệ lợi ích của nhà nước, tổ chức các nhân hoặc lợi ích của chính mình mà thực hiện hành vi chống trả trên mức cần thiết không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm.
Hành vi khách quan của tội phạm cố ý tác động trái pháp luật đến thân thể của người khác trong điều kiện:
- Đang có hành vi tấn công nguy hiểm trái pháp luật diễn ra xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, tổ chức các nhân hoặc lợi ích của chính mình.
- Người phạm tội đã có hành vi phòng vệ trước sự tấn công của bị hại nhằm gạt bỏ sự tấn công.
- Hành vi phòng vệ vượt quá giới hạn cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm gây hậu quả thương tật từ 31% trở lên cho nạn nhân.
Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ
Theo quy định tại Điều 137 BLHS 2015, là hành vi khi thực hiện công vụ mà sử dụng vũ lực ngoài những trường hợp được cho phép gây hậu quả thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác.
Dấu hiệu của tội phạm được thể hiện như:
- Nạn nhân của hành vi này là những người vi phạm pháp luật và bị người thi hành công bắt giữ. Cũng có trường hợp người bị hại không phải là người có hành vi phạm pháp nhưng bị xâm hại vì lỗi của người thi hành công vụ.
- Hành vi khách quan của tội phạm là sử dụng vũ lực ngoài những trường hợp được cho phép theo quy định như sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ gây hậu quả thương tật từ 31% trở lên cho nạn nhân.
Khác nhau quan trọng nhất giữa các tội danh trên là mục đích của người thực hiện hành vi, nó có ý nghĩa quan trọng để xác định người phạm tội thuộc vào loại tội danh nào và khung hình phạt ra sao. Tuy nhiên giới hạn giữa các tội danh này rất mong manh, dẫn đến có rất nhiều vụ án xác định sai tội danh là làm tổn hại nghiêm trọng đến các quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội.
Hình phạt của tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác
Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 134 Bộ Luật hình sự: Quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm mà tỷ lệ tổn thương cơ thể nạn nhân từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp phạm tội từ điểm a đến điểm k như phân tích trên.
Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 134 Bộ Luật hình sự: Quy định hình phạt từ từ 02 năm đến 06 năm thuộc một trong những trường hợp quy định từ điểm a đến điểm đ khoản 2 Điều này.
Mức hình phạt tại khoản 3 Điều 134 Bộ Luật hình sự: Quy định phạt tù từ 05 năm đến 10 năm khi phạm tội một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm d khoản 3 Điều này.
Mức hình phạt tại khoản 4 Điều 134 Bộ Luật hình sự: Quy định phạt tù từ 07 năm đến 17 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm đ khoản 4 Điều này.
Mức hình phạt tại khoản 5 Điều 134 Bộ Luật hình sự: Quy định phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
Làm chết 02 người trở lên;
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
Trong các tình tiết tăng nặng cần lưu ý:
Để xác định mức độ gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác và có phải thuộc vùng mặt hay không căn cứ vào kết quả giám định pháp y thương tích. Căn cứ để đánh giá mức độ thương tích là kết quả giám định pháp y theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/08/2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám pháp y tâm thần (trước là Thông tư 20/2014/TT-BYT).
Phạm tội dẫn đến chết người là trường hợp ý thức chủ quan của người phạm tội chỉ muốn gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của nạn nhân nhưng không may nạn nhân chết, việc nạn nhân chết là người ý muốn của người phạm tội.
Phải xác định vì bị thương nặng nên nạn nhân chết chứ không phải nguyên nhân nào khác, ở đây cần phải làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả chết người với những thương tích của nạn nhân do người phạm tội gây ra.
Mức hình phạt tại khoản 6 Điều 134 Bộ Luật hình sự: Quy định phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với người chuẩn bị phạm tội này.
Chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, axit nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Người phạm tội còn có thể bị xem xét về tội liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép vũ khí, vật liệu nổ (theo Điều 304, 305, 306).
Thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 134 tội cố ý gây thương tích
Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:
Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Như vậy, trên đây là toàn bộ thông tin và nội dung tư vấn pháp luật của Luật Trần và Liên Danh liên quan đến điều khoản tội cố ý gây thương tích. Mọi thắc mắc xin liên hệ qua Hotline: Công ty luật uy tín để được giải đáp nhanh chóng, chu đáo và miễn phí!