Ở nước ta, hệ thống chế tài được phân biệt thành 03 cấp bậc: chế tài hành chính, chế tài dân sự và chế tài hình sự với mỗi một hệ thống pháp luật điều chỉnh khác nhau nhưng vẫn có sự giao thoa để giải quyết một vấn đề cụ thể. Chính vì vậy, trong các quan hệ hình sự nói chung, các vụ án hình sự nói riêng, vẫn có những quy định về bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự. Để hiểu rõ hơn điều này và áp dụng thực tế trong cuộc sống, bài viết dưới đây sẽ là cách giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự quy định năm 2021.
Thế nào là bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự
Trong bộ luật dân sự hiện hành, căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đầu tiên là hành vi xâm phạm của người gây thiệt hại, theo đó, người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Người bị thiệt hại không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bên gây thiệt hại nữa, họ chỉ cần xác định được hành vi xâm phạm của người gây thiệt hại là đã có thể yêu cầu bồi thường.
Bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự là hình thức trách nhiệm dân sự được giải quyết trong vụ án hình sự nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù các tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại.
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự
Căn cứ theo quy định tại Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015, nguyên tắc bồi thường thiệt hại được quy định như sau:
- Thiệt hại thực tế phải được “bồi thường” toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
- Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
- Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
- Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.
” alt=”” aria-hidden=”true” />
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 584 Bộ luật Dân sự như sau:
- Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
- Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
- Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.
Chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự
Tại Khoản 1; điểm g Khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có quy định:
- Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.
- Bị hại có quyền đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường.
Ngoài ra, tại Khoản 1; điểm g Khoản 2 Điều 63 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 cũng quy định:
- Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.
- Nguyên đơn dân sự có quyền đề nghị mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường.
Do vậy, chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại gồm bị hại và nguyên đơn dân sự. Tuy nhiên, nguyên đơn dân sự cần phải có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại gửi đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Quy định về cách giải quyết bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự
Việc giải quyết bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự chính là vấn đề giải quyết dân sự trong vụ án hình sự. Việc bồi thường ở đây có thể bằng vật chất hoặc tinh thần, đối với tội phạm gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức, qua đó đe dọa lợi ích chung của xã hội. Hành vi này xâm phạm quan hệ hình sự ở chỗ xâm phạm lợi ích công cộng nhưng còn xâm phạm đến quan hệ dân sự là gây thiệt hại cho một cá nhân, tổ chức khác cho nên phải bồi thường.
Điều 30, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Như vậy, xét về mặt tinh thần chung thì việc bồi thường thiệt hại trong vụ án dân sự sẽ được giải quyết trong quá trình cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự theo thủ tục tố tụng hình sự. Trường hợp bồi thường thiệt hại chỉ được tách ra khi:
- Tại thời điểm giải quyết vụ án hình sự, chưa có điều kiện chứng minh vấn đề bồi thường thiệt hại
- Việc bồi thường thiệt hại không ảnh hưởng đến việc giải quyết cụ án hình sự, đặc biệt là vấn đề định tội dan, quyết định hình phạt cuối cùng của người phạm tội
- Thời điểm tách việc bồi thường thiệt hại thường nằm trong giai đoạn cuối của quá trình giải quyết vụ án hình sự – giai đoạn xét xử vụ án, chịu ảnh hưởng bởi quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng trong tất cả các giai đoạn tố tụng
- Có thể nói, giải quyết bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự chỉ là phạm vi hẹp và thường thì không cần tách mà giải quyết luôn với những vụ án hình sự.
Đã bồi thường thiệt hại có phải chịu trách nhiệm hình sự nữa không?
Đây là một trong những vấn đề, câu hỏi được rất nhiều người đọc quan tâm, và cũng không ít người hiểu sai về vấn đề này. Trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, không thiếu trường hợp gây ra thiệt hại về sức khỏe, nhân phẩm, ủy tín, tài sản của người khác…. Lúc này, ngoài chịu trách nhiệm hình sự, người phạm tội còn phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, chỉ khởi tố vụ án hình sự về tội phạm khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết trong 10 trường hợp sau:
– Khoản 1 Điều 135 Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với mức phạt là phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tiền từ 10 – 50 triệu đồng;
– Điều 136. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội với mức phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 20 triệu đồng;
– Điều 138. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với mức phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 20 triệu đồng;
– Khoản 1 Tội cưỡng dâm với mức phạt tù từ 01 – 05 năm…
Lúc này, nếu người phạm tội bồi thường thiệt hại và được bị hại rút yêu cầu khởi tố thì vụ án sẽ được đình chỉ. Trừ trường hợp có căn cứ xác định người bị hại bị ép buộc, cưỡng bức rút yêu cầu.
Đồng thời, theo quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự, người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại và được người bị hại tự nguyện hòa giải, đề nghị miễn trách nhiệm hình sự thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Như vậy, không phải mọi trường hợp khi người phạm tội đã bồi thường thiệt hại thì đều được miễn trách nhiệm hình sự mà chỉ những trường hợp đã phân tích ở trên mới có thể được.
Bồi thường thiệt hại chỉ là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự?
Theo phân tích ở trên, không phải mọi trường hợp bồi thường thiệt hại đều có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Theo Điều 51 Bộ luật Hình sự, việc người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả chỉ là một trong những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Đây cũng là một trong những nguyên tắc xử lý người phạm tội nêu tại Điều 3 Bộ luật nêu trên. Theo đó, sẽ khoan hồng với người trong quá trình giải quyết vụ án mà ăn năn, hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.
Như vậy, có thể thấy quan niệm đã bồi thường thiệt hại sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự nữa là hoàn toàn sai lầm. Tùy từng mức độ của hành vi và việc bị hại có đơn yêu cầu, đề nghị thì người phạm tội sẽ được xem xét miễn hoặc giảm trách nhiệm hình sự.
Toàn bộ thông tin trên đây là những thông tin của Luật Trần và Liên Danh đưa đến cho các bạn về cách giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự. Để biết thêm các chi tiết về điều này, so sánh với bồi thường thiệt hại trong dân sự và hành chính, xác định đặc điểm của từng loại quan hệ bồi thường, quý khách hàng có thể liên hệ với chúng tôi để nhận được tư vấn và hỗ trợ nhanh nhất.