Vi phạm luật hôn nhân 1 vợ 1 chồng

vi phạm luật hôn nhân 1 vợ 1 chồng
Để đảm bảo hôn nhân một vợ một chồng – một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình được thực thi, pháp luật đặt ra những quy định xử lý đối với những hành vi vi phạm nguyên tắc này. Bài viết dưới đây, Luật Trần và Liên Danh sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin cần thiết về các hình thức xử lý vi phạm như sau:

Chế độ hôn nhân một vợ một chồng

Theo khoản 1 Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình bao gồm: “Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”.

Như vậy, “một vợ một chồng” là một trong những nguyên tắc cơ bản hàng đầu của chế độ hôn nhân và gia đình. Theo đó, cá nhân đã kết hôn chỉ được có một vợ hoặc một chồng và trong thời kì hôn nhân không được kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác.

Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và các văn bản hướng dẫn áp dụng, các thuật ngữ “kết hôn” “người đang có vợ hoặc chồng” hoặc “người chưa có vợ hoặc chồng” được hiểu như sau:

Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.

Người đang có vợ hoặc có chồng mà có hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác

Đang có vợ hoặc có chồng được hiểu là người đã kết hôn (có đăng ký kết hôn hoặc hôn nhân thực tế được pháp luật công nhận) và chưa chấm dứt quan hệ hôn nhân bằng một quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án (về công nhận thuận tình ly hôn, xử cho ly hôn hay tiêu hôn vì vi phạm điều kiện kết hôn do luật định) hoặc một bên chết, mất tích đã bị Toà án tuyên bố mất tích… 

Người chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ

Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn [3]. Chính vì vậy, người chưa có vợ, có chồng là người chưa từng kết hôn hoặc đã kết hôn nhưng đã chấm dứt hôn nhân. Chỉ khi người chưa có vợ, có chồng biết được người mình chung sống là người đang có vợ, có chồng thì mới được xem là hành vi khách quan của tội phạm này.

Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.

Tại thông tư Liên tịch Số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn áp dụng các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: “Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình.

Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó”. 

Thế nào là vi phạm luật hôn nhân 1 vợ 1 chồng

Có thể hiểu, vi phạm luật hôn nhân 1 vợ 1 chồng là việc một người đã có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác, hoặc người chưa có vợ có chồng mà lại cố tình chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đã có vợ có chồng.

Việc chung sống này có thể công khai hoặc không công khai, nhưng phải thể hiện ở các dấu hiệu như: Thời gian chung sống với nhau tương đối dài; có tài sản chung; đã có con chung với nhau; được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng…

Quy định của pháp luật hình sự về tội vi phạm luật hôn nhân 1 vợ 1 chồng

Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng được quy định tại Bộ luật hình sự điều 182 tội vi phạm chế độ một vợ một chồng như sau:

Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng

1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;

b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.

Như vậy, vi phạm chế độ một vợ một chồng theo cách gọi phổ biến hiện nay chính là hành vi ngoại tình. Không chỉ người đã kết hôn ngoại tình mới bị xử phạt hành chính hoặc chịu trách nhiệm hình sự mà ngay cả người chưa kết hôn nhưng ngoại tình với người đã có vợ, có chồng cũng sẽ xị xử phạt tương tự.

Cấu thành tội phạm hành vi vi phạm luật hôn nhân 1 vợ 1 chồng

Để xác định một cá nhân có phạm tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo Điều 182 Bộ luật hình sự 2015; thì cần phải xét 4 dấu hiệu cấu thành nên tội phạm; bao gồm chủ thể, khách thể, mặt khách quan và mặt chủ quan.

Chủ thể: 

  • Chủ thể của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng là chủ thể thường.

Theo đó người từ đủ 18 tuổi trở lên và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự nghĩa là không mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của bản thân theo quy định của Điều 21 Bộ luật hình sự 2015 sẽ là chủ thể của tội này.

Khách thể:

  • Khách thể là những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ và tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng có khách thể là chế độ hôn nhân và gia đình trong xã hội.

Theo đó, cá nhân có hành vi ngoại tình đã xâm phạm vào chế độ hôn nhân và gia đình đang được nhà nước bảo vệ nên phải chịu trách nhiệm hình sự.

Mặt khách quan:

  • Mặt khách quan là những biểu hiện ra bên bên ngoài của tội phạm; bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện phạm tội….

Hành vi khách quan được quy định cụ thể trong điều luật của Bộ luật hình sự; và nếu bất kỳ người nào thực hiện hành vi đó dẫn đến hậu quả bằng phương tiện nào đó; thì có thể xem là tội phạm.

  • Có thể thấy hành vi khách quan trong tội vi phạm chế độ một vợ, một chống gồm những hành vi sau:
    • Người đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác;
    • Người chưa có vợ, chưa có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ.
  • Hậu quả của hành vi này là làm cho quan quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát.

Lưu ý:

+ Hôn nhân thực tế được hiểu là trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký trước chính quyền, không vi phạm điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình và quan hệ này phải xác lập trước khi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực.

+ Trường hợp người có chồng, có vợ hợp pháp nhưng đang ly thân mà kết hôn hoặc chung sống với người khác như vợ chồng thì vẫn bị coi là phạm vào tội này.   

+ Nếu hậu quả nghiêm trọng xảy ra mà cấu thành một tội phạm khác thì người phạm tội còn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội độc lập đó.

vi phạm luật hôn nhân 1 vợ 1 chồng
vi phạm luật hôn nhân 1 vợ 1 chồng

Ví dụ: A đi công tác xa đã chung sống với chị B như vợ chồng, nên đã tìm cách giết vợ để được chung sống với B một cách trọn vẹn. Hành vi của A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội là tội vi phạm chế độ một vợ một chồng và tội giết người.

+ Nếu người đang có vợ có chồng hợp pháp mà sống như vợ như chồng với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giao cấu với trẻ em.

+ Nếu sống chung như vợ chồng với trẻ em chưa đủ 13 tuổi thì họ phạm vào tội hiếp dâm trẻ em. 

+ Dấu hiệu khác: Hành vi nói trên phải gây hậu quả nghiêm trọng (như làm cho gia đình họ đổ vỡ phải ly hôn…) hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.

Mặt chủ quan:

  • Mặt chủ quan là biểu hiện về mặt tâm lý bên trong người phạm tội; bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Người phạm tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng sẽ có lỗi cố ý với mục đích thỏa mãn nhu cầu cá nhân.

Xử phạt vi phạm hành chính

Theo quy định tại điều 48 nghị định 110/2013/ NĐ – CP được sửa đổi, bổ sung theo  nghị định 67/2015/NĐ-CP có nêu rõ mức độ xử phạt đối với hành vi chế độ hôn nhân một vợ một chồng như sau:

“Điều 48. Hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng

1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;

c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;”

Trên đây là một số nội dung về vi phạm luật hôn nhân 1 vợ 1 chồng, nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.

 

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139