Trước đó, các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng nói chung lần đầu tiên được quy định trong Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 1995. Hãy cùng tìm hiểu về đăng ký giao dịch bảo đảm.
Khái niệm giao dịch đảm bảo là gì?
Giao dịch bảo đảm là Hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản theo đó bên bảo đảm cam kết với bên nhận bảo đảm về việc dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Đăng ký giao dịch bảo đảm là việc cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm ghi vào Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc nhập vào Cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm việc bên bảo đảm dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm.
Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm là sổ chuyên dùng để đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc sổ có một phần dành để đăng ký giao dịch bảo đảm.
Các giao dịch bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
Việc bảo đảm nghĩa vụ dân sự luôn gắn với trách nhiệm dân sự về tiền, tài sản và việc trả nợ, nên trong nhiều trường hợp còn được gọi là bảo đảm nghĩa vụ tài chính, bảo đảm nghĩa vụ tài sản hay bảo đảm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng.
Hợp đồng là một chế định pháp lý quan trọng và phổ biến nhất để mọi chủ thể thực hiện các hoạt động dân sự, kinh doanh, thương mại, hành chính. Vì vây, Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ gọi là “hợp đồng”, thay vì “hợp đồng dân sự’ như trước đây.
Các biện pháp bảo đảm hợp đồng tuy chỉ là hợp đồng phụ, nhưng trong nhiều trường hợp lại đóng vai trò quan trọng hơn cả hợp đồng chính. Chẳng hạn, nếu như một hợp đồng cho vay bị vô hiệu thì hậu quả pháp lý xấu nhất chỉ là không được quyền thu tiền lãi (vẫn có quyền thu hồi đủ số tiền gốc), nhưng nếu như một hợp đồng bảo đảm tiền vay bị vô hiệu thì bên cho vay có nguy cơ không thu hồi được cả nợ gốc và lãi.
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được quy định chủ yếu trong Bộ luật Dân sự1, đồng thời cũng được đề cập trong hàng chục đạo luật khác như Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Luật Đất đai , Luật Doanh nghiệp , Luật Hàng không dân dụng Việt Nam , Luật Lâm nghiệp , Luật Nhà ở , Luật Thủy sản , ngoài ra còn được quy định trong nhiều văn bản dưới luật.
Năm 2021 pháp luật quy định, “trường hợp pháp luật về đất đai, nhà ở, đầu tư, doanh nghiệp, chứng khoán, bảo hiểm, ngân hàng, tài nguyên thiên nhiên, thủy sản, lâm nghiệp, hàng không, hàng hải, sở hữu trí tuệ, khoa học và công nghệ hoặc lĩnh vực khác có quy định đặc thù về tài sản bảo đảm, xác lập, thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc xử lý tài sản bảo đảm thì áp dụng quy định đặc thù đó” – theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 về “Áp dụng pháp luật và thỏa thuận về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”, Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ “Quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”.
Giao dịch bảo đảm được áp dụng một cách rất rộng rãi, phổ biến
Trước đó, các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng nói chung lần đầu tiên được quy định trong Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật Dân sự .
Biện pháp bảo đảm được áp dụng một cách rất rộng rãi, phổ biến trong việc bảo đảm các điều kiện đầu tư kinh doanh và mọi giao dịch dân sự (như cho vay, dịch vụ, đại lý, đầu tư, đấu giá, gia công, giao đất, gửi giữ, khai khoáng, mua bán, nợ thuế, tạm nhập tái xuất, thuê mượn, vận chuyển, xây dựng, xuất khẩu lao động, V.V.); trống đó chủ yếu là việc bảo đảm thực hiện hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh doanh thương mại (Riêng cụm từ “giao dịch bảo đảm” lần đầu tiên xuất hiện trong Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về “Giao dịch bảo đảm” và các hợp đồng khác.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, có 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, bảo lãnh, tín chấp và cầm giữ tài sản. Trong đó có 7 biện pháp được gọi là giao dịch bảo đảm; trừ 2 biện pháp cầm giữ tài sản và bảo lưu quyền sở hữu thì chỉ là biện pháp bảo đảm, chứ không phải là giao dịch bảo đảm. Bảo lưu quyền sở hữu đã xuất hiện ỏ trong cả hai Bộ luật Dân sự năm , còn cầm giữ tài sản cũng đã xuất hiện trong Bộ luật Dân sự năm , nhưng lại đều không được coi là biện pháp bảo đảm theo quy định của hai Bộ luật này.
Như vậy, các biện pháp bảo đảm gần như trùng với các giao dịch bảo đảm theo quy định của hai Bộ luật Dân sự , nhưng là khác nhau theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Bộ luật Dân sự năm 1995 có 53 đỉều quy định về biện pháp bảo đảm (từ Điều 324 đến Điều 376) và 70 điều của 2 Nghị định hướng dẫn (chưa kể 39 điều hướng dẫn riêng cho các tổ chức tín dụng). Bộ luật Dân sự năm cũ có 70 điều quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (từ Điều 318 đến Điều 387) và 128 điều của 2 Nghị định hướng dẫn (Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về “Giao dịch bảo đảm” (đã hết hiệu lực); Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày10/3/2000 của Chính phủ về “Đăng ký giao dịch bảo đảm” (sửa đổi, bổ sung theo Nghị đỉnh số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004, đã hết hiệu lực); Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về “Bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng” (đã hết hiệu lực) và Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về “Giao dịch bảo đảm” (sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 và Nghị định số ll/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012, đã hết hiệu lực); Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 về “Đăng ký giao dịch bảo đảm” (sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 05/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012, đã hết hiệu lực). Bộ luật Dân sự năm 2015 có 59 điều về quy định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (từ Điều 292 đến Điều 350), giảm 11 điều so với Bộ luật Dân sự năm 2005 do nhiều quy định được chuyển sang các phần quy định chung về tài sản và giao dịch, có 132 điều của 2 Nghị định hướng dẫn (Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về ‘Dăng ký biện pháp bảo đảm” và Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ “Quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”).
Mặc dù các biện pháp bảo đảm nói chung, giao dịch bảo đảm nói riêng, đã được quy định trong cả 3 Bộ luật Dân sự 1995, 2005, 2015, với những nội dung ngày càng chi tiết, cụ thể hơn, tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề vướng mắc và chưa hợp lý.Nhìn chung, hệ thống các quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm hiện nay còn khá tản mạn, chồng chéo, phức tạp, mâu thuẫn, khó cho việc theo dõi và thực hiện. Điều này gây ra rất nhiều khó khăn cho cả việc quản lý và thực thi pháp luật về biện pháp bảo đảm.
Pháp luật quy định thỏa thuận về giao dịch bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo hướng
– Là một nội dung của hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng bảo lãnh, nhưng khi xác lập hợp đồng các bên vẫn có thể thỏa thuận để lập một hợp đồng bảo đảm riêng biệt.
– Không quy định rõ là một nội dung của hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng bảo lãnh mà chỉ quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ để các bên lựa chọn.
Như vậy, sự tồn tại của thỏa thuận về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng bảo lãnh dù được biểu đạt trong hợp đồng tín dụng hay văn bản riêng biệt thì thỏa thuận này vẫn chứa đầy đủ các nội dung của một giao dịch hợp đồng.
Do đó, giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng và người vay hoặc giữa tổ chức tín dụng và người vay với người thứ ba dùng tài sản hoặc uy tín của mình để bảo đảm cho nghĩa vụ thanh toán số tiền đã được tổ chức tín dụng giao cho người vay, xác lập quyền xử lý tài sản bảo đảm hoặc quyền yêu cầu của người thứ ba phải thực hiện nghĩa vụ này thay cho người vay khi người vay không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng tín dụng.
Nội dung của giao dịch bảo đảm
Đối tượng của nghĩa vụ được bảo đảm trong hợp đồng tín dụng là nghĩa vụ của toàn bộ hợp đồng tín dụng, bao gồm tiền gốc và tiền lãi phát sinh. Tài sản bảo đảm bao giờ cũng phải lớn hơn nghĩa vụ của toàn bộ hợp đồng tín dụng.
Tài sản bảo đảm, thay đổi tài sản bảo đảm. Việc thay đổi tài sản bảo đảm có thể dẫn tới việc thay đổi biện pháp bảo đảm hoặc chủ thể tham gia giao dịch bảo đảm, nếu có sự thay đổi thì các bên phải tuân thủ quy định của pháp luật liên quan đến việc thay đổi. Cần lưu ý:
– Tài sản bảo đảm là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai (Tài sản được hình thành từ tiền vay, tài sản đang trong giai đoạn hình thành hoặc đang được tạo lập hợp pháp tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm, tài sản đã hình thành và thuộc đối tượng phải đăng ký quyền sở hữu nhưng sau thời điểm giao kết thì tài sản đó mới được đăng ký theo quy định của pháp luật và khẳng định tài sản hình thành trong tương lai không bao gồm quyền sử dụng đất) mà pháp luật không cấm giao dịch.
– Tài sản bảo đảm có thể là sở hữu của bên bảo đảm hoặc của người thứ ba mà pháp luật không cấm lưu thông.
– Tài sản bảo đảm có thể liên quan đến các luật chuyên ngành như luật đất đai, luật nhà ở, luật kinh doanh bất động sản…
– Trường hợp giao dịch bảo đảm có giá trị pháp luật đối với người thứ ba thì cơ quan có thẩm quyền không được kê biên tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ khác của bên bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
– Tổ chức tín dụng khi cho vay cần kiểm tra tài sản bảo đảm có phải là tài sản của người đang bị thi hành án hay không, kể cả trong trường hợp chưa bị áp dụng biện pháp kê biên để tránh rủi ro. Bởi vì, theo điều 6 khoản 1 thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/07/2010 hướng dẫn một số vấn đề thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự quy định:
“Kể từ thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm mà người phải thi hành án không thừa nhận tài sản là của mình mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu có tranh chấp thì chấp hành viên hướng dẫn đương sự thực hiện việc khởi kiện tại toà án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hết thời hạn 30 ngày kể từ ngày được thông báo mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản để thi hành án”.
Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong giao dịch bảo đảm được thỏa thuận trên nguyên tắc tự nguyện định đoạt, bình đẳng.
Xử lý tài sản bảo đảm theo BLDS năm 2015 không quy định cụ thể về các trường hợp được xử lý tài sản bảo đảm, nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 tại chương IV từ điều 56 đến điều 70 đã quy định về các trường hợp được xử lý tài sản bảo đảm. Một trong những điểm mở của nghị định là “Các trường hợp được xử lý tài sản bảo đảm khác do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định” ngoài các trường hợp được dự liệu tại điều 56 khoản 1 nghị định số 163/2006/NĐ-CP. Các bên có thể lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp như hòa giải, thương lượng, tố tụng trọng tài, tố tụng toà án.
Trên đây là toàn bộ thông tin liên quan đến giao dịch tài sản. Luật Trần và Liên Danh hi vọng hữu ích với bạn.