Bồi thường thiệt hại do thu hồi đất là quyền của chủ thể đang sử dụng đất bị thu hồi nhằm bù đắp thiệt hại về vật chất cho người sử dụng đất trong trường hợp bị thu hổi đất để chuyển sang sử dụng vào mục đích khác hoặc vì nhu cầu của nhà nước và xã hội. Dưới đây là quy định chi tiết của pháp luật về Điều 230 Bộ luật hình sự quy định tội vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 230 BLHS năm 2015
Theo đó, Điều 230 Bộ luật hình sự quy định như sau:
“ 1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau đây, gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Vi phạm quy định của pháp luật về bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư;
b) Vi phạm quy định của pháp luật về bồi thường về tài sản, về sản xuất kinh doanh.
2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm:
a) Vì vụ lợi hoặc vì động cơ cá nhân khác;
b) Có tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
d) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
đ) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
3. Phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Căn cứ quy định trên, có thể thấy, chủ thể thực hiện hành vi phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn. Đối tượng này đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thực hiện hành vi vi phạm quy định của pháp luật về (i) bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư; (ii) bồi thường về tài sản, về sản xuất kinh doanh. Những hành vi này gây thiết hại về tài sản, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Khung hình phạt cao nhất đối với hành vi vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là 20 năm.
Các dấu hiệu pháp lý quy định tại Điều 230 Bộ luật hình sự 2015
Về khách thể của tội phạm – Điều 230 Bộ luật hình sự
Tội vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là hành vi xâm phạm đến chính sách và các quy định của nhà nước về quản lý đất đai, xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước, xâm phạm đến quyền, lợi ích của nhà nước, của người sử dụng đất trong việc thu hồi đất.
Hành vi vi phạm của người phạm tội gây thiệt hại về tài sản, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Đồng thời còn gây ảnh hưởng đến uy tín của nhà nước, làm giảm lòng tin của nhân dân vào việc thực hiện các chính sách của nhà nước về thu hồi đất nói riêng, các chính sách quản lý kinh tế nói chung.
Mặt khách quan của tội phạm – Điều 230 Bộ luật hình sự
Mặt khách quan của tội phạm này bao gồm 02 (hai) dạng hành vi: (1) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm các quy định của pháp luật về bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư; (ii) Vi phạm quy định của pháp luật về bồi thường về tài sản, về sản xuất kinh doanh.
Theo đó, hành vi vi phạm quy định của pháp luật về bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư có thể là:
(i) không bồi thường về đất, không hỗ trợ và tái định cư hoặc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thấp hơn diện tích đất, các khoản hỗ trợ, tái định cư mà người sử dụng đất được bồi thường về đất, hỗ trợ gây thiệt hại cho người sử dụng đất có diện tích đất thu hồi;
(ii) bồi thường về đất không đúng loại đất có cùng mục đích sử dụng với diện tích đất thu hồi, bồi thường vượt quá diện tích đất thu hồi, hỗ trợ và tái định cư cao hơn tiêu chuẩn mà người sử dụng đất được bồi thường, hỗ trợ theo quy định gây thiệt hại về tài sản cho nhà nước hoặc người sử dụng đất;
(iii) áp dụng bồi thường bằng tiền cho diện tích đất thu hồi không đúng theo giá đất được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định;
(iv) áp dụng bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư cho những trường hợp thu hồi đất không đủ điều kiện được bồ thường về đất, không được áp dụng các khoản hỗ trợ, tái định cư…..
Còn hành vi vi phạm quy định về bồi thường về tài sản, về sản xuất kinh doanh có thể là (i) không bồi thường, bồi thường thấp hơn giá trị tài sản, chi phí di chuyển tài sản khi thu hồi đất, khoản bồi thường do hạn chế khả năng sử dụng đất trong hành lang bảo vệ an toàn thuộc các công trình công cộng, an ninh, quốc phòng mà không thu hồi đất; (ii) bồi thường vượt giá trị thiệt hại tài sản, chi phí di chuyển tài sản, chi phí phát sinh khác khi thu hồi đất; (iii) bồi thường đối với tài sản gắn liền với đất không thuộc diện được bồi thường về tài sản do thu hồi đất; (iv) bồi thường về tài sản cho những tài sản có thể di chuyển làm tăng chi phí bồi thường.
Ngoài hai dạng hành vi chính nêu trên, tội vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất còn có các dạng hành vi vi phạm khác như (i) chậm chi trả tiền bồi thường, thực hiện bồi thường đất, các khoản bồi thường khác làm phát sinh khoản đền bù do chậm thực hiện bồi thường, các chi phí, thiệt hại khác của người sử dụng đất do việc chậm thực hiện bồi thường gây ra; (ii) không khấu trừ khoản tiền tương ứng với nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với nhà nước của người sử dụng đất có diện tích đất thu hồi làm thất thoát khoản nghĩa vụ tài chính này.
Những hành vi nêu trên gây ra những thiệt hại về tài sản cho nhà nước và cho người dân, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 230 Bộ luật hình sự
Người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi cố ý, họ nhận thức được hành vi phạm tội của mình sẽ gây thiệt hại về tài sản cho nhà nước, cho người sử dụng đất nhưng vẫn thực hiện.
Mục đích của người thực hiện hành vi phạm tội chủ yếu là vì mục đích vụ lợi.
Về chủ thể của tội phạm – Điều 230 Bộ luật hình sự
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nắm giữ chức vụ, quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thực hiện hành vi phạm tội.
Mức phạt tại Điều 230 Bộ luật hình sự 2015
Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 230 Bộ Luật hình sự: Theo quy định tại Điều 230 Bộ luật hình sự, người nào lợi dung chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi vi phạm quy định của pháp luật về (i) bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư; (ii) về bồi thường về tài sản, về sản xuất kinh doanh mà gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Đây là khung hình phạt thấp nhất áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội.
Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 230 Bộ Luật hình sự: Đối với những người thực hiện các hành vi nêu trên nếu (i) vì vụ lợi hoặc vì động cơ cá nhân khác; (ii) có tổ chức; (iii) dùng thủ đoạn tinh vi xảo quyệt; (iv) gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; (v) gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng thì từ 03 năm đến 12 năm.
Mức hình phạt tại khoản 3 Điều 230 Bộ Luật hình sự: Phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
Mức hình phạt tại khoản 4 Điều 230 Bộ Luật hình sự: Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 230 Bộ luật hình sự 2015
Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:
Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 230 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín để được hỗ trợ nhanh nhất