Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu là một trong các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định trong Bộ luật hình sự 2015. Theo đó, tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu là hành vi mua chuộc, cưỡng ép người khác để khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật bằng mọi cách, mọi thủ đoạn vật chất hoặc vi vật chất. Vậy Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu là gì? Mức phạt thế nào?
Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 384 Bộ luật hình sự 2015
Điều 384 Bộ luật hình sự quy định tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu như sau:
“Điều 384. Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu
1. Người nào mua chuộc hoặc cưỡng ép người làm chứng, người bị hại, đương sự trong các vụ án hình sự, hành chính, dân sựkhai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc không khai báo, không cung cấp tài liệu; mua chuộc hoặc cưỡng ép người giám định, người định giá tài sản kết luận gian dối, người phiên dịch, người dịch thuật dịch xuyên tạc, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Dẫn đến việc giải quyết vụ án, vụ việc bị sai lệch.”
Dấu hiệu pháp lý của tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối
Khách thể của tội phạm – Điều 384 Bộ luật hình sự
Mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật là hành vi dùng tiền hoặc lợi ích vật chất hoặc dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực, hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác để buộc người làm chứng, người bị hại khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, người giám định kết luận gian dối, người phiên dịch dịch xuyên tạc.
Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và của công dân làm cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án bị kéo dài, bị sai lệch, thậm chí làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm; gây thiệt hại nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng cho các đương sự,…
Đối tượng tác động của tội phạm này chính là những người bị mua chuộc, bị cưỡng ép khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật. Những người này có thể là đương sự, người làm chứng, người bị hại, người giám định hoặc người phiên dịch. Người phạm tội tác động đến những người này để thông qua họ xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan tiến hành tố tụng. Nếu những người bị mua chuộc lại là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn để khai báo gian dối, từ chối khai báo, từ chối cung cấp tài liệu, từ chối giám định hoặc dịch xuyên tác thì tuỳ trường hợp họ có hể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ hoặc tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Đối với người bị cưỡng ép bằng vũ lực mà bị gây thiệt hại về thể chất hoặc thinh thần thì tuỳ trường hợp họ có thể là người bị hại trong vụ án, nếu như họ không còn cách nào khác buộc phải khai báo gian dối, từ chối khai báo, từ chối cung cấp tài liệu, từ chối giám định hoặc dịch sai.
Như vậy, khách thể của tội phạm là hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng; quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và của công dân.
Mặt khách quan của tội phạm – Điều 384 Bộ luật hình sự
Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi mua chuộc hoặc cưỡng ép.
Mua chuộc là dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác để lôi kéo người khác làm một việc theo ý muốn của người mua chuộc. Mua chuộc người khác khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật là dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác để lôi kéo người làm chứng, người bị hại khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, người giám định kết luận gian dối, người phiên dịch dịch xuyên tạc.
Cưỡng ép là dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác nhằm buộc người làm chứng, người bị hại, người giám định hoặc người phiên dịch phải khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, kết luận gian dối hoặc dịch xuyên tạc. Hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lức hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác cũng tương tự như hành vi quy định trong các tội cướp, cưỡng đoạt tài sản, chỉ khác ở chỗ, đối với cướp, cưỡng đoạt tài sản người phạm tội thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác là nhằm chiếm đoạt tài sản, còn ở tội phạm này người phạm tội dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác là nhằm để người làm chứng, người bị hại, người giám định hoặc người phiên dịch phải khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, kết luận gian dối hoặc dịch xuyên tạc.
Hậu quả của hành vi mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Nếu hành vi mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì tuỳ trường hợp mà người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội chưa gây ra hậu quả.
Chủ thể của tội phạm – Điều 384 Bộ luật hình sự
Chủ thể của tội phạm này không phải chủ thể đặc biệt, bất kì ai cũng có thể là chủ thể của tội phạm này. Họ có thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài hay người không quốc tịch.
Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.
Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXIV Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội cản trở việc thi hành án là người từ đủ 16 tuổi trở lên.
Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 384 Bộ luật hình sự
Người phạm tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối thực hiện hành vi phạm tội của mình là do cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Tức là biết rõ hành vi của mình là hành vi trái pháp luật nhằm cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối, mong muốn cho hậu quả hoặc để mặc cho hậu quả xảy ra.
Bản thân hành vi mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác đã thể hiện sự cố ý của người thực hiện hành vi này. Không ai mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác làm một việc gì lại không có động cơ mục đích.
Người phạm tội có thể vì động cơ khác nhau nhưng đều có chung một mục đích là nhằm làm cho người bị mua chuộc, bị cưỡng ép phải khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật mà mình mong muốn.
Hình phạt đối với người phạm tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối
Điều 384 Bộ luật Hình sự quy định 02 khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:
Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 384 Bộ Luật hình sự: Người nào mua chuộc hoặc cưỡng ép người làm chứng, người bị hại, đương sự trong các vụ án hình sự, hành chính, dân sự khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc không khai báo, không cung cấp tài liệu; mua chuộc hoặc cưỡng ép người giám định, người định giá tài sản kết luận gian dối, người phiên dịch, người dịch thuật dịch xuyên tạc, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm.
Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 384 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
- Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
- Dẫn đến việc giải quyết vụ án, vụ việc bị sai lệch.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 384 BLHS năm 2015
Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:
Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 384 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín để được hỗ trợ nhanh nhất.