Hiện nay, các đối tượng phạm tội gá bạc đang có chiều hướng gia tăng gây hậu quả nghiêm trọng cho trật tự, an toàn của xã hội. Có thể thấy rằng, nhiều người nhận thức rõ hành vi gá bạc là phạm pháp nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi để trục lợi, thu tiền bất chính. Để ngăn chặn, răn đe tội phạm này, pháp luật hiện hành đã có các quy định, chế tài xử phạt rất nghiêm khắc. Dưới đây là bài phân tích của Luật Trần và Liên Danh về gá bạc, dấu hiệu pháp lý và mức xử phạt hành vi gá bạc.
1. GÁ BẠC LÀ GÌ?
Gá bạc là cho người khác sử dụng địa điểm đang do mình quản lý, sử dụng để đánh bạc nhằm mục đích thu tiền, trục lợi. Trong đó:
Địa điểm gá bạc ở đây có thể là nhà ở, nơi làm việc, cửa hàng, khách sạn, phòng trọ, tàu, xe, thuyền, bè hay bất cứ đâu, miễn là thuộc quyển sở hữu hoặc quản lí của người gá bạc.
Gá bạc có nơi còn gọi là chứa gá bạc hoặc chứa bạc. Hành vi vi phạm phải nhằm mục đích thu tiền, trục lợi thì mới được coi là gá bạc. Nếu cho người khác dùng địa điểm đang do mình quản lý, sử dụng để đánh bạc vì nể nang hoặc vì lý do khác thì không bị coi là gá bạc.
Hành vi gá bạc thường bị nhầm lẫn với hành vi tổ chức đánh bạc do đều nhằm mục đích trục lợi từ người tham gia đánh bạc.
Tuy nhiên, khác với gá bạc, tổ chức đánh bạc là hành vi rủ rê, lôi kéo, chuẩn bị công cụ phương tiện để cho hành vi đánh bạc diễn ra. Xét về tính chất thì hành vi tổ chức đánh bạc nguy hiểm hơn so với hành vi gá bạc.
2. DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI GÁ BẠC
Căn cứ khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tội gá bạc như sau:
“Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Tổ chức, sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu, quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên mà số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;
b) Tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần có giá trị 20.000.000 đồng trở lên;
c) Tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc; phân công người canh gác, người phục vụ, sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc;
d) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.”
Từ quy định của pháp luật hình sự, ta có thể thấy dấu hiệu pháp lý của tội gá bạc như sau:
Khách thể
Tội phạm xâm phạm trật tự công cộng, an toàn xã hội.
Mặt khách quan
Hành vi khách quan của tội gá bạc là hành vi cho thuê, cho mượn địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để người khác dùng tiền, hiện vật có giá trị tham gia vào sự kiện, sự việc mà họ có thể thua được bằng tiền hoặc hiện vật có giá trị khi không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
Hành vi gá bạc trái phép cấu thành tội gá bạc nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;
– Sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;
– Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên;
– Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc;
– Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Người thực hiện hành vi gá bạc mà còn thực hiện hành vi đánh bạc, thì ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 322 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 thì còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Mặt chủ quan
Tội phạm thực hiện với lỗi cố ý, tức là người phạm tội nhận thức được rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội nhưng vẫn thực hiện.
Chủ thể
Chủ thể của tội phạm là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự.
3. MỨC XỬ PHẠT HÀNH VI GÁ BẠC
Theo quy định của pháp luật hiện hành, hành vi gá bạc có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị xử lý hình sự.
Thứ nhất, xử phạt vi phạm hành chính.
Khoản 4 Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định:
4. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi tổ chức đánh bạc sau đây:
a) Rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác để đánh bạc trái phép;
b) Dùng nhà, chỗ ở, phương tiện, địa điểm khác của mình hoặc do mình quản lý để chứa chấp việc đánh bạc […]
Căn cứ quy định trên, người thực hiện hành vi gá bạc, tổ chức đánh bạc dưới mức phải chịu trách nhiệm hình sự có thể bị phạt hành chính đến 10 triệu đồng.
Thứ hai, xử lý hình sự.
Khung hình phạt tại khoản 1:
Người phạm tội bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
– Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên cùng lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 05 triệu đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 05 triệu đồng trở lên;
– Sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình cho 10 người đánh bạc trở lên cùng lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 05 triệu đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 05 triệu đồng trở lên;
– Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20 triệu đồng trở lên;
– Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc;
– Đã bị phạt hành chính về hành vi đánh bạc hoặc một trong các hành vi trên hoặc đã bị kết án về tội này hoặc Tội đánh bạc, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Khung hình phạt tại khoản 2:
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
– Có tính chất chuyên nghiệp.
– Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên.
– Sử dụng mạng Internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội.
– Tái phạm nguy hiểm.
Hình phạt bổ sung:
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
Gác bạc có phải là tổ chức đánh bạc?
Theo quy định của pháp luật, cấu thành hai hành vi này là giống nhau và mức hình phạt cũng giống nhau. Tuy nhiên, thực tiễn các vụ án cho thấy hai hành vi này có nhiều điểm khác nhau .
Tổ chức đánh bạc là hành vi chỉ huy, phân công, điều hành sự kiện, sự việc để những người khác dùng tiền, hiện vật có giá trị tham gia vào sự kiện, sự việc mà họ có thể được thua bằng tiền hoặc hiện vật có giá trị khi không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép (không được cấp phép hoặc không đúng với nội dung đã được cấp phép).
Trong khi đó, gá bạc là hành vi cho thuê, cho mượn địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để người khác dùng tiền, hiện vật có giá trị tham gia vào sự kiện, sự việc mà họ có thể thua được bằng tiền hoặc hiện vật có giá trị khi không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
Trường hợp những người tham gia đánh bạc sau khi bàn bạc thống nhất về hành vi đánh bạc, cách thức đánh bạc và sau đó xin người quản lý, sử dụng địa điểm đó đánh bạc thì người quản lý, sử dụng địa điểm phạm tội gá bạc. Việc xác định ý thức của người quản lý, sử dụng địa điểm hình thành trước hay sau khi có hành vi đánh bạc là một trong những căn cứ quan trọng để xem xét người đó phạm tội tổ chức đánh bạc hay phạm tội gá bạc.
Ví dụ: Ngày 20/11/2020 tại quán ăn M do Nguyễn Văn A là chủ sở hữu có 3 nhóm đánh bạc, theo lời khai của các nhóm này thì sau khi bàn bạc xong về hình thức đánh bạc thì các nhóm này xin phép chủ quán M đánh bạc tại quán và được Nguyễn Văn A đồng ý, A đi mua bài và phục vụ nước, thuốc cho 3 nhóm đánh bạc, các nhóm này thỏa thuận nếu ai thắng thì bỏ ra 20.000 đồng mỗi ván trích ra trả tiền nước cho A, ba nhóm trích ra được số tiền 2.500.000 đồng. Sau đó Công an phát hiện bắt giữ thu tổng số tiền 3 nhóm là 18.000.000 đồng. Trong tình huống này, các đối tượng đánh bạc hình thành ý tưởng đánh bạc trước sau đó mới xin phép A đánh bạc tại quán, ý thức của Nguyễn Văn A hoàn toàn bị động và không xuất hiện ý tưởng đánh bạc. Do đó, Nguyễn Văn A phạm tội gá bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
5. CĂN CỨ PHÁP LÝ
– Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
– Nghị định số 167/2013/NĐ-CP Quy định sử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.