Thuế giá trị gia tăng hay gọi tắt là VAT thực sự là một cỗ máy kiếm tiền. Đây là loại thuế được áp dụng cho người mua ở tất cả các giai đoạn của chuỗi cung ứng. Nó cũng áp dụng cho việc bán một sản phẩm hoặc dịch vụ như một khoản thuế bán hàng. Nó trở thành một loại thuế trở thành một phần của giá bán lẻ. Bạn sẽ tìm thấy VAT ở tất cả các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu, Canada và các quốc gia khác, nhưng không phải ở Hoa Kỳ.
Ưu nhược điểm của thuế giá trị gia tăng là gì? Đây là những lý do tại sao một số ủng hộ loại thuế này, trong khi những người khác phản đối mạnh mẽ.
Định nghĩa thuế giá trị gia tăng
Thuế giá trị gia tăng là loại thuế tiêu dùng nhằm động viên một bộ phận thu nhập của người chịu thuế đã sử dụng để mua hàng hoá, nhận dịch vụ.
Điều 2 Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 quy định: “Thuế giá trị gia tăng và thuế thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”. Như vậy, xét về bản chất, thuế giá trị gia tăng là loại thuế gián thu. Các nhà sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ là người nộp thuế nhưng người tiêu dùng lại thực chất là người chịu thuế thông qua giá cả hàng hoá dịch vụ.
Điều này giúp cho cơ quan quản lí, thu thuế giá trị gia tăng tránh được sự phản ánh gay gắt về thuế. Bên cạnh đó, thuế giá trị gia tăng cũng có thể ảnh hưởng tới sức mua của công chúng do phần thuế này đã được cấu thành trong giá bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng. Những phân tích này cho thấy việc áp dụng thuế giá trị gia tăng tại một quốc gia cần phải cân nhắc tính phù hợp, những yếu tố ảnh hưởng của loại thuế này cho nền kinh tế.
Thực hiện thuế giá trị gia tăng, có thể làm ảnh hưởng tới các vấn đề tiêu dùng, mức độ lạm phát.
Thuế giá trị gia tăng có thể ảnh hưởng tới sức tiêu dùng của công chúng. Xuất phát từ chỗ thuế giá trị gia tăng cấu thành trong giá bán (giá thanh toán), sức tiêu dùng của công chúng phụ thuộc vào quan hệ giữa thu nhập với giá cả hàng hoá dịch vụ. Tỉ trọng giữa giá cả và thu nhập của người chịu thuế càng cao, càng làm giảm cơ hội tiêu dùng trong công chúng.
Phân tích yếu tố này giúp cho cơ quan lập pháp tìm ra phương án tối ưu về cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trong những giai đoạn nhất định. Nếu xét theo khía cạnh thuế với các chỉ số giá cả, đương nhiên cũng có mối liên quan nhất định. Số tiền thuế giá trị giá tăng trong giá bán làm thay đổi chỉ số giá cả, lạm phát trong những giai đoạn có sự thay đổi về thuế.
Xác định mối liên quan giữa loại thuế này với chỉ số giá cả, lạm phát có ý nghĩa đối với nhà lập pháp khi quyết định chính sách thuế suất hợp lí trong những giai đoạn nhất định để đảm bảo khi thực hiện thuế giá trị gia tăng không gây ra những xáo trộn lớn trong dân chúng. Việc áp dụng thành công thuế giá trị gia tăng tại Pháp được đánh giá là nhờ chính sách thuế suất hợp lí qua các giai đoạn cụ thể.
Đặc điểm của thuế giá trị gia tăng
Thuế giá trị gia tăng có nhiều điểm tương đồng với các loại thuế đánh vào hàng hoá dịch vụ khác (như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu nhập khẩu) nhưng có thể nhận diện thuế giá trị gia tăng thông qua đặc điểm của nó.
Thứ nhất, thuế giá trị gia tăng có đối tượng chịu thuế rất rộng. Mọi chủ thể tồn tại trong xã hội, cho dù là tổ chức hay cá nhân, là người nghèo hay người có thu nhập cao đều phải chi trả thu nhập của mình để thụ hưởng kết quả sản xuất kinh doanh tạo ra cho nền kinh tế xã hội. Điều này có nghĩa, mọi đối tượng trong xã hội đều là chủ thể chịu thuế, chủ thể thực tế phải trả một phần thu nhập do hành vi tiêu dùng. Chính đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng tới sự tác động của pháp luật thuế giá trị gia tăng đối với đời sống kinh tế, xã hội.
Việc đánh thuế đối với mọi đối tượng trên phạm vi lãnh thổ thể hiện rõ nét sự công bằng của thuế đồng thời thể hiện thái độ của Nhà nước đối với các loại tiêu dùng trong xã hội.
Đối với những trường hợp cần phải khuyến khích tiêu dùng hoặc hạn chế đến mức tối đa việc trả tiền thuế từ phần thu nhập ít ỏi của họ do hành vi tiêu dùng, Nhà nước sẽ không đánh thuế hoặc đánh thuế với mức thuế suất thấp nhất. Phương án ngược lại được áp dụng đối với trường hợp hạn chế tiêu dùng.
Thứ hai, thuế giá trị gia tăng chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ. Việc đánh thuế chỉ trên phần giá trị tăng thêm mà không phải đối với toàn bộ giá trị hàng hoá dịch vụ làm cho số thuế giá trị gia tăng áp dụng trong mỗi khâu của quá trình lưu thông không gây ra những đột biến về giá cả cho người tiêu dùng.
Đặc điểm này của thuế giá trị gia tăng còn yêu cầu pháp luật điều chỉnh phải tìm ra cách thức, phương thức phù hợp, có tính khả thi để xác định chính xác phần giá trị tăng thêm làm căn cứ tính thuế.
Làm rõ phần giá trị tăng thêm là nội dung quan trọng, một mặt lí giải cơ sở quy định phần chịu thuế trong pháp luật thuế giá trị gia tăng, mặt khác đưa ra các phương án khả thi để xác định phần giá trị tăng thêm đối với các chu trình lưu thông khác nhau của hàng hoá.
Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu kinh tế, giá trị gia tăng là phần chênh lệch giữa giá trị sản xuất, tiêu dùng và giá trị hàng hoá dịch vụ mua vào tương ứng với hàng hoá dịch vụ tiêu thụ, theo C. Mác, đây chính là quá trình tạo ra giá trị thặng dư. Nếu xét về lí thuyết và cơ cấu hình thành giá trị tăng thêm, có nhiều phương án lựa chọn. Tuy vậy, việc xác định phần giá trị gia tăng gắn với quan hệ pháp luật thuế, phải có đủ căn cứ thực tế chính xác, đảm bảo quyền của Nhà nước nhưng không vi phạm nguyên tắc công bằng (theo chiều ngang) giữa các chủ thể nộp thuế.
Trong thực tiễn pháp lí, các quốc gia áp dụng thuế giá trị gia tăng đều xác định giá trị tăng thêm dựa trên cơ sở chứng từ chứng minh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ thể nộp thuế. Cụ thể, các chứng từ hoá đơn được coi là bằng chứng – quan trọng khi xác định phần giá trị tăng thêm.
Lựa chọn phương pháp xác định giá trị tăng thêm theo chứng từ hoá đơn có rất nhiều lợi thế: Một mặt, Nhà nước kiểm soát mọi hoạt động của chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế; mặt khác, các chủ thể kinh doanh dần đi vào khuôn khổ pháp luật và Nhà nước tạo cơ hội cho các chủ thể này tự kiểm soát lẫn nhau.
Thứ ba, nếu dựa trên giá mua cuối cùng của hàng hoá dịch vụ, số thuế giá trị gia tăng phải nộp không thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác nhau.
Đánh thuế ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá ở trong nước, khâu nhập khẩu và lưu thông hàng nhập khẩu nhưng cơ sở xác định số thuế phải nộp chỉ là phần giá trị mới tăng thêm của khâu sau so với khâu trước nên nếu coi giá thanh toán tính đến khi người tiêu dùng thụ hưởng hàng hoá dịch vụ đã xác định trước và không thay đổi, các phần giá trị hàng hoá dịch vụ có bị chia nhỏ và đánh thuế, tổng số thuế giá trị gia tăng phải nộp qua các khâu chính là số thuế cuối cùng tính trên tổng giá trị hàng hoá dịch vụ mà người tiêu dùng phải gánh chịu.
Đây vừa là đặc điểm vừa là ưu việt của thuế giá trị gia tăng so với thuế hàng hoá dịch vụ thông thường (thuế doanh thu) mà Việt Nam và nhiều quốc gia đã áp dụng trong giai đoạn trước đây.
Nếu như thuế đã xuất hiện từ rất lâu đời thì thuế giá trị gia tăng có thể coi là loại thuế hiện đại, áp dụng chính thức lần đầu tiên tại Pháp năm 1954, mặc dù đã được các nhà kinh tế nghiên cứu từ những năm 1920 ở các quốc gia khác nhau. Cho đến nay, loại thuế này đã được áp dụng ở trên 120 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Ở Việt Nam, trước năm 1990, thuế doanh thu áp dụng đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tập thể và cá thể. Điều lệ thuế công thương nghiệp ban hành theo Nghị quyết số 200/NQ-TVQH ngày 18/01/1966 quy định loại thuế này. Đối với các xí nghiệp quốc doanh, áp dụng chế độ “thu quốc doanh”, được quy định cụ thể trong từng thời gian nhất định.
Mức thu quốc doanh được xác định riêng cho từng mặt hàng, từng loại hoạt động sản xuất kinh doanh. Do áp dụng hai chế độ thu khác nhau, thể hiện phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, bên cạnh đó chế độ thu quốc doanh cũng bộc lộ những nhược điểm cơ bản. Năm 1990, Quốc hội ban hành Luật thuế doanh thu, áp dụng chung cho các chủ thể có hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thuế doanh thu áp dụng đối với tất cả các tổ chức cá nhân kinh doanh, có doanh thu phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam.
Căn cứ tính thuế của thuế doanh thu là doanh thu tính thuế và thuế suất. Theo đó, doanh thu tính thuế được xác định là toàn bộ doanh thu phát sinh của mỗi khâu sản xuất, lưu thông. Như vậy, hàng hoá càng qua nhiều khâu của quá trình lưu thông, số tiền thuế doanh thu được tính cho hàng hoá đó càng lớn.
Vì đánh thuế dựa trên toàn bộ giá trị bán hàng (là giá đã có thuế doanh thu), hiện tượng thuế đánh chồng trên thuế được coi là hạn chế cơ bản. Bên cạnh đó, chế độ thuế suất của thuế doanh thu cũng rất phức tạp, theo từng ngành nghề, hoạt động kinh doanh, rất khó khăn cho quá trình áp dụng và cũng dễ nảy sinh những vi phạm pháp luật về thuế.
Những hạn chế của thuế doanh thu hoàn toàn có thể khắc phục được bởi thuế giá trị gia tăng. Vì vậy, Việt Nam cũng thực hiện từng bước, thay thế Luật thuế doanh thu bằng Luật thuế giá trị gia tăng, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện loại thuế mới, với nhiều ưu việt.
Để Luật thuế giá trị gia tăng được chính thức ban hành năm 1997 và áp dụng từ ngày 01/01/1999, Chính phủ Việt Nam đã nghiên cứu và từng bước áp dụng loại thuế doanh thu nhưng cơ sở xác định loại thuế phải nộp tương tự như thuế giá trị gia tăng từ những năm 1993 như hoạt động mang tính thử nghiệm, sau đó áp dụng thí điểm thuế giá trị gia tăng đối với một số doanh nghiệp hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định.
Ưu điểm của VAT là gì?
Bạn có thể thay đổi hệ thống thuế phức tạp
Tại Hoa Kỳ, mã số thuế năm 2016 bao gồm hơn 74.000 trang quy tắc và quy định. Điều đó gây khó khăn cho người bình thường trong việc thực hiện các trách nhiệm về thuế của họ. Với thuế giá trị gia tăng, hệ thống có thể được thay đổi để dễ hiểu hơn một chút. Ai có thời gian để đọc 500 triệu từ của mã số thuế?
Nó sẽ mang lại cơ hội tạo ra tiền mới.
Khi bán hàng trực tuyến, có một số tình huống trong đó người tiêu dùng ở Hoa Kỳ sẽ không phải trả thuế cho giao dịch mua của họ. Với sự hiện diện của thuế VAT, điều này sẽ thay đổi vì thuế sẽ được áp dụng trên toàn quốc. Tất cả các hoạt động bán hàng, bao gồm cả bán hàng trực tuyến có thể không có thuế bán hàng do nhà nước áp đặt, sẽ tạo ra thêm tiền.
Tạo thêm thu nhập
Có những chương trình quan trọng mà mọi chính phủ thực hiện. Tầm quan trọng của từng chương trình riêng lẻ có thể được tranh luận, nhưng với số tiền do IVA tạo ra, những chương trình đó có thể được tài trợ đầy đủ. Thuế VAT cũng có thể cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho cộng đồng, được sử dụng để giảm thâm hụt và các mục đích được chỉ định khác.
Hầu hết khách du lịch quên yêu cầu hoàn thuế VAT
Tất cả các giao dịch bán hàng đều được ấn định thuế GTGT khi thực hiện mua hàng. Hầu hết các quy định về thuế VAT đều cho phép những người sống ở nước ngoài yêu cầu hoàn thuế đã nộp. Nó là một cái gì đó thường bị lãng quên, có nghĩa là nó là một nguồn thu nhập bổ sung có thể được truy cập. Bởi vì biên nhận thành từng khoản cũng được yêu cầu, một số thậm chí có thể không đủ điều kiện để yêu cầu hoàn lại tiền và thậm chí có thể không nhận ra điều đó.
Những nhược điểm của thuế VAT là gì?
Nó thường là một loại thuế rất lũy thoái
Hầu hết các loại thuế do VAT tạo ra đến từ những người có khả năng trả ít nhất. Tỷ lệ phần trăm nghèo nhất của hệ thống kinh tế xã hội có xu hướng trả phần trăm tổng thu nhập của họ cho VAT cao hơn so với những người giàu hơn của họ.
Đây là loại thuế thường được cộng vào các loại thuế khác
Tại Hoa Kỳ, thuế VAT rất có thể sẽ được thêm vào bên cạnh thuế bán hàng của tiểu bang. Nếu có 6% thuế bán hàng và 4% VAT được thêm vào, thì một mặt hàng trị giá 10 đô la sẽ có giá 11 đô la cho một người tiêu dùng thay vì 10,60 đô la. Đối với các mặt hàng có giá trị cao, đó là một sự khác biệt thực sự có thể tăng lên nhanh chóng.
Nó sẽ trở thành một gánh nặng hành chính cho các công ty
Khi thuế VAT được thêm vào, giá bán lẻ của từng mặt hàng và dịch vụ được cung cấp sẽ thay đổi. VAT phải được tính cho từng bước của quy trình cần thiết để tạo ra sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ.
Các chi phí bổ sung này sau đó sẽ được tính vào giá của sản phẩm cuối cùng, khiến người tiêu dùng phải trả tất cả các loại thuế bổ sung. Sau đó, người tiêu dùng có một khoản thuế GTGT cuối cùng mà anh ta phải trả khi mua hàng của mình.
VAT có thể không được yêu cầu bởi tất cả mọi người
Nhiều hệ thống thuế GTGT cung cấp cho các công ty cơ hội nộp đơn xin miễn thuế. Điều này có nghĩa là họ sẽ không phải trả thuế giá trị gia tăng đối với các mặt hàng đang được sử dụng và cuối cùng sẽ được bán cho người tiêu dùng. Điều này có nghĩa là phần lớn gánh nặng thuế sẽ rơi vào người tiêu dùng cá nhân và các doanh nghiệp được miễn về cơ bản được đi xe miễn phí khi người tiêu dùng không có quyền yêu cầu miễn trừ như vậy.
Ưu và nhược điểm của thuế giá trị gia tăng thường có thể truyền cảm hứng cho các cuộc tranh luận sôi nổi. Đó là một hệ thống có thể huy động được nhiều tiền mặt, nhưng nó có được sản xuất với chi phí của những người có nhu cầu lớn nhất không? Đó là câu hỏi mà mọi cộng đồng phải trả lời nếu coi thuế VAT là một giải pháp tài chính khả thi.
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Để được tư vấn một cách chi tiết và đầy đủ hơn về nhược điểm của thuế giá trị gia tăng Quý khách hàng vui lòng liên hệ qua Tổng đài tư vấn 0969 078 234 của Luật Trần và Liên Danh. Chúng tôi luôn sẵn sàng tư vấn, hỗ trợ Quý khách hàng những vấn đề pháp lý chất lượng hàng đầu trên toàn quốc.