Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát là một tội danh theo quy định của BLHS. Theo đó, các hành vi xúi giục, giúp đỡ được người phạm tội thực hiện. Đương nhiên trong trường hợp này, người phạm tội hoàn toàn xác định được hậu quả xấu nhất sẽ xảy ra. Các động cơ thực hiện tội phạm có thể khác nhau tùy vào nhận thức của người phạm tội. Tuy nhiên hành vi này đã thúc đẩy cướp đi tính mạng, quyền được sống của con người mà pháp luật bảo vệ. Do đó, cùng tìm hiểu các cấu thành của điều 131 BLHS năm 2015 tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát cũng như hiểu rõ về các hành vi được người phạm tội tiến hành.
Quy định chi tiết về Điều 131 BLHS năm 2015 tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát
– Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Điều 131 BLHS năm 2015 quy định Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát như sau:
Điều 131. Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát
Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của họ;
b) Tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ.
Phạm tội làm 02 người trở lên tự sát, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.”
Hành vi xúi giục, giúp người khác tự sát là gì? Điều 131 BLHS năm 2015 tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát
Xúi giục người khác tự sát là hành vi của một người đã có những lời lẽ kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của họ.
Giúp người khác tự sát là hành vi của một người tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ. Khi đó, người phạm tội giúp đỡ để tạo ra điều kiện thuận lợi nhất. Họ hoàn toàn lường trước được kết quả xấu nhất có thể tước đoạt một tính mạng con người.
Đây là điều luật quy định hai hành vi phạm tội. Chữ “hoặc” để thể hiện cấu thành tội phạm của một trong hai hoặc cả hai hành vi.
Nếu người phạm tội có cả hai hành vi xúi giục và giúp người khác tự sát thì tội danh mà họ bị truy cứu là tội “xúi giục và giúp người khác tự sát” chứ không có từ “hoặc”. Và nếu người phạm tội chỉ có hành vi xúi giục thì định tội là “xúi giục người khác tự sát”, nếu chỉ có hành vi giúp thì định tội là “Giúp người khác tự sát”. Người nghiên cứu cần hiểu rõ các quy định pháp luật để xác định tội danh thực tế cho người thực hiện hành vi phạm tội.
Hành vi xúi giục người khác tự sát:
Hành vi xúi dục người khác tự sát bao gồm:
– Kích động người tự sát.
Kích động người khác tự sát là có những lời lẽ nhằm thúc đẩy bằng cách tác động tâm lý làm cho người bị kích động tự ái tới mức cao độ nên đã tự sát. Nếu không có những lời lẽ kích động đó thì nạn nhân dù có chán đời, có những uẩn khúc trong cuộc sống cũng chưa tới mức tự sát.
– Dụ dỗ người khác tự sát.
Là người phạm tội đã có những lời lẽ khuyên bảo một cách khéo léo để làm cho người khác tự sát theo ý muốn của mình.
Những lời nói kích động, dụ dỗ của người phạm tội là nhằm thúc đẩy nạn nhân đến chỗ tự sát. Vì vậy, ý thức của người phạm tội là mong muốn làm sao cho nạn nhân tự sát. Nếu chỉ vì một vài lời nói có tính chất kích động mà nạn nhân sẵn có ý muốn tự sát, còn người có lời nói đó hoàn toàn không mong muốn cho nạn nhân tự sát thì cũng không phạm tội xúi giục người khác tự sát.
Hành vi giúp người khác tự sát:
Hành vi giúp người khác tự sát là hành vi tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất để người khác tự sát, như: tìm kiếm, cung cấp phương tiện để nạn nhân tự sát hoặc hứa hẹn trước với nạn nhân giữ kín việc tự sát của họ.
Người phạm tội phải nhận thức được hành vi của mình là tạo điều kiện cho nạn nhân tự sát thì mới là phạm tội giúp người khác tự sát. Nếu họ không biết và không thể biết hành động của mình tạo điều kiện cho nạn nhân tự sát thì không phạm tội này.
Người bị hại phải tự mình thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng:
Kết quả: Nạn nhân tự sát:
Cũng tương tự như trường hợp bức tử, nạn nhân bằng nhiều phương pháp khác nhau, đã tự mình thực hiện việc tước đoạt tính mạng của chính mình như: thắt cổ, uống thuốc độc, nhảy xuống sông, đâm vào bụng, bắn vào đầu v.v…
Nếu nạn nhân tuy muốn chết nhưng lại không thực hiện hành vi tự tước đoạt tính mạng của mình mà nhờ người khác giúp thì không phải là giúp người khác tự sát mà người có hành vi tước đoạt tính mạng của nạn nhân phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người.
Người phạm tội cố ý thực hiện hành vi:
Cả hai trường hợp phạm tội trên, người phạm tội thực hiện hành vi của mình đều do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình nguy hiểm đến tính mạng của nạn nhân, thấy trước được hành vi xúi giục hoặc giúp người khác tự sát nhất định hoặc có thể dẫn đến nạn nhân tự sát và mong muốn hoặc bỏ mặc cho việc tự sát xảy ra.
Nếu nạn nhân bị chết thì cái chết của nạn nhân chỉ là hậu quả gián tiếp do hành vi xúi giục hoặc giúp đỡ nạn nhân của người phạm tội chưa không phải là hậu quả trực tiếp. Vì vậy, không nên xét lỗi của người phạm tội đối với cái chết của nạn nhân.
Thực hiện xúi giục, giúp đỡ phải dẫn đến hậu quả nạn nhân tự sát:
Cả hai trường hợp xúi giục và giúp người khác tự sát, chỉ cần người bị xúi giục hoặc được giúp đỡ có hành vi tự sát là tội phạm đã hoàn thành. Còn nạn nhân có chết hay không, điều đó chỉ có ý nghĩa khi xem xét đến việc quyết định hình phạt hoặc xem xét đến việc có truy tố người phạm tội này hay không chứ không có ý nghĩa định tội.
Tội phạm này cũng không có giai đoạn phạm tội chưa đạt, bởi lẽ dù có bị xúi giục hoặc được giúp đỡ đến mức nào đi nữa mà người bị xúi giục, người được giúp đỡ không tự sát thì vẫn chưa phải là tội phạm.
Luật sư hình sự tư vấn cấu thành tội phạm của Điều 131 BLHS năm 2015 tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát
Khách thể của tội phạm – Điều 131 BLHS năm 2015
Xúi giục hoặc giúp người khác tự sát bao gồm các hành vi như kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự sát; tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự sát.
Tội phạm làm ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, gián tiếp xâm phạm quyền sống của con người.
Vì vậy, khách thể của tội phạm là quyền được sống, quyền được Nhà nước bảo hộ về tính mạng và trật tự an toàn của xã hội.
Mặt khách quan của tội phạm – Điều 131 BLHS năm 2015
Hành vi thuộc mặt khách của tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát bao gồm các hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của họ hoặc tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ.
– Kích động người tự sát.
Kích động người khác tự sát là có những lời lẽ nhằm thúc đẩy bằng cách tác động tâm lý làm cho người bị kích động tự ái tới mức cao độ nên đã tự sát. Nếu không có những lời lẽ kích động đó thì nạn nhân dù có chán đời, có những uẩn khúc trong cuộc sống cũng chưa tới mức tự sát.
Ví dụ: Chị A đang chán đời , vì chồng chị ngoại tình, muốn ly hôn để lấy nhân tình. Anh B là một hư hỏng, bị chồng chị A mua chuộc nhờ b tìm cách làm cho chị A tự ái mà tự tử. B nhận lời đến gặp chị A và nói: “Em mà như chị thì em chẳng sống làm gì cho khổ… chồng con gì mà tệ bạc… ngày nào em cũng thấy anh ấy đi chơi với cô X cùng cơ quan, nhiều lần bắt gặp hai người trong công viên v.v…” Sẵn chán đời, lại nghe B nói như vậy chị A đã treo cổ tự tử.
– Dụ dỗ người khác tự sát.
Dụ dỗ người khác tự sát là người phạm tội đã có những lời lẽ khuyên bảo một cách khéo léo để làm cho người khác tự sát theo ý muốn của mình.
Ví dụ: Chị C và anh D là người yêu, nhưng D còn bắt cá hai tay, yêu cả chị M và muốn cắt đứt với C nên D nói dối với C là gia đình D không đồng ý cho D lấy C làm vợ. Vì quá yêu D nên C bàn với D trộm sổ hộ khẩu đi đăng ký kết hôn, nhưng D lấy lý do là đã thử nhưng không thành công, nhưng để trọn tình với C, D bàn với C là cả hai cùng nhảy xuống sông tự tử để cả hai đứa mãi mãi được ở bên nhau.
Vì quá yêu C đồng ý, lúc hô đến ba để nhảy xuống sông tự vẫn thì C nhảy nhưng D không nhảy và quay về nói vs mọi người là C vì quá nản với cuộc sống nên đã nhảy sông tự tử.
– Thúc đẩy người khác tự sát
Thúc đẩy người khác tự sát là người phạm tội dùng lời lẽ hoặc hành động đẩy nhanh quá trình nạn nhân mong muốn tự sát bằng cách dụ dỗ hoặc kích động nạn nhân.
– Tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ
Hành vi giúp người khác tự sát là hành vi tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất để người khác tự sát, như: tìm kiếm, cung cấp phương tiện để nạn nhân tự sát hoặc hứa hẹn trước với nạn nhân giữ kín việc tự sát của họ. Ví dụ: A biết B có ý định tự sát và A cũng muốn B tự sát nhưng B chưa biết tự sát bằng cách nào, B nhờ A đi mua hộ thuốc ngủ và không được nói là mua hộ B, A đã nhận lời và mua cho B 20 viên thuốc ngủ và B đã uống một lúc hết 20 viên thuốc ngủ nên đã tử vong.
Tội phạm được coi hoàn thành từ thời điểm nạn nhân có hành vi tự sát, còn việc nạn nhân tự sát nhưng không chết do được phát hiện ngăn chặn, cấp cứu kịp thời chỉ là tình tiết để xem xét khi quyết định hình phạt.
Cần phải xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi xúi giục hoặc giúp người khác tự sát với hậu quả xảy ra là nạn nhân tự sát. Nếu người nào vừa có hành vi xúi giục, vừa có hành vi giúp người khác tự sát thì phạm tội xúi giục và giúp người khác tự sát. Nếu người phạm tội chỉ thực hiện hành vi xúi giục người khác tự sát hoặc chỉ giúp người khác tự giác thì phạm tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát.
Nếu hành vi trợ giúp lại có tính quyết định cái chết của nạn nhân thì người đó không phạm tội giúp người khác tự sát mà phạm tội giết người. Ví dụ, A mượn súng của B để tự sát, A tự bắn vào đầu khiến mình tử vong, trường hợp này B là người giúp A tự sát.
Nếu A mượn súng của B nhưng A lại không biết hoặc không dám nổ súng, B nổ súng hộ A, dù hành vi tự sát là mong muốn của A thì B vẫn phạm tội giết người theo Điều 123 Bộ luật hình sự mà không phải tội giúp người khác tự sát theo Điều 131 Bộ luật hình sự.
Chủ thể của tội phạm – Điều 131 BLHS năm 2015
Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát được thực hiện bởi bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự.
Thứ nhất, tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát được thực hiện bởi bất kỳ người nào. Đó có thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài hay người không quốc tịch.
Thứ hai, theo quy định tại Khoản 1 Điều 12 người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Khoản 2 Điều 12 có quy định một số loại tội phạm người từ đủ 14 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng không có tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát theo Điều 131. Như vậy, người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm về tội bức tử.
Thứ ba, người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Tức là người đó phải có cả năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi. Nếu người đó phạm tội trong trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc bị hạn chế năng lực hình sự thì có thể được loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 21 Bộ luật hình sự.
Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 131 BLHS năm 2015
Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Người thực hiện hành vi xúi giục hoặc giúp người khác tự sát hoàn toàn có đủ nhận thức để nhìn thấy trước hậu quả nạn nhân sẽ tự tử, nhưng người phạm tội hoàn toàn mong muốn hậu quả nạn nhân tử vong hoặc dù không mong muốn nhưng vẫn có ý thức bỏ mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Hành vi xúi giục phải dẫn đến việc nạn nhân tự nguyện tự sát (mối quan hệ nhân quả). Nếu hành vi xúi giục kèm theo hành vi dồn ép người khác buộc họ không còn con đường nào khác phải tự sát thì không phạm tội này mà phạm tội bức tử theo Điều 130 Bộ luật hình sự.
Mức hình phạt của tội xúi giục người khác tự sát Điều 131 BLHS năm 2015
Điều 131 BLHS năm 2015 quy định 02 khung hình phạt đối với người phạm Tội xúi giục người khác tự sát như sau:
Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 131 Bộ Luật hình sự: Khung hình phạt phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm áp dụng với người xúi giục hoặc giúp 01 người tự sát. Theo Điều 9 Bộ luật hình sự, tội phạm này thuộc loại tội phạm ít nguy hiểm.
Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 131 Bộ Luật hình sự: Khung hình phạt phạt tù từ 02 năm đến 07 năm áp dụng với trường hợp người phạm tội làm 02 người trở lên tự sát. Theo Điều 9 Bộ luật hình sự, đây là loại tội phạm nghiêm trọng.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tội xúi giục người khác tự sát Điều 131 BLHS năm 2015
Bên cạnh định khung hình phạt của tội danh, khi xét xử vụ án Hình sự, Thẩm phán sẽ xem xét tới những căn cứ làm giảm hình phạt cho bị cáo theo quy định của pháp luật. Đó là dựa trên chính sách khoan hồng và nhân đạo của nhà nước và Luật pháp.
Theo quy định của Bộ Luật Hình sự, các tình tiết giảm nhẹ luật định được quy định tại điều 51 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017):
Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
Phạm tội do lạc hậu;
Người phạm tội là phụ nữ có thai;
Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
Người phạm tội tự thú;
Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;
Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;
Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sỹ, người có công với cách mạng.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Như vậy, khi làm việc với cơ quan chức năng, người phạm tội phải thành khẩn khai báo và hợp tác để được hưởng chính sách khoan hồng của nhà nước. Bên cạnh đó, cần có sự tham gia của Luật sư bào chữa cho bị cáo. Việc góp mặt của luật sư khi tham gia vụ án với tư cách người bào chữa không chỉ xác định chính xác tội danh mà còn khai thác tối đa các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị can, bị cáo.
Trên đây là một số nội dung Điều 131 BLHS năm 2015 quy định nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.