Cải tạo không giam giữ

cải tạo không giam giữ

Cải tạo không giam giữ là một loại hình phạt trong xử lý trách nhiệm hình sự, được coi là nhẹ hơn hình phạt tù nhưng nặng hơn hình phạt cảnh cáo và phạt tiền. Khác với hình phạt tù là người bị kết án sẽ bị cách ly khỏi xã hội, phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ thì đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, người bị kết án vẫn được sống, lao động và học tập ngoài xã hội. Sau đây, Luật Trần và Liên Danh xin giới thiệu đến quý khách hàng và bạn đọc một số nội dung dưới đây:

Cải tạo không giam giữ là gì?

Các hình phạt chính đối với người phạm tội bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Trong các hình phạt này, nhiều người quan tâm đến hình phạt cải tạo không giam giữ bởi đây là hình phạt được áp dụng với nhiều người phạm tội thuộc khoản 1 các điều quy định tội phạm cụ thể. Theo Điều 32 Bộ luật Hình sự 2015, cải tạo không giam giữ thuộc một trong 7 hình phạt chính đối với người phạm tội.

Cụ thể, cải tạo không giam giữ là hình phạt không bắt buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội, mà được giao cho cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội giám sát, giáo dục nhằm phát huy vai trò của quần chúng nhân dân tham gia vào việc cải tạo, giáo dục người phạm tội.

Đây là loại hình phạt không tước đi tự do, không buộc người phạm tội phải cách li khỏi gia đình, nơi làm việc cũng như xã hội nói chung. Tuy nhiên, người bị kết án cải tạo không giam giữ sẽ bị giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án làm việc hoặc thường trú.

Nghĩa vụ mà người bị phạt cải tạo không giam giữ phải thực hiện là báo cáo, tự kiểm điểm theo định kì… và có thể phải nộp một phần thu nhập để sung quỹ nhà nước (trừ trường hợp được miễn do điều kiện thực tế không cho phép). Thời gian cải tạo không giam giữ từ 6 tháng đến 3 năm.

Áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thế nào?

Cải tạo không giam giữ được quy định tại Điều 36 Bộ luật Hình sự, theo đó:

Cải tạo không giam giữ áp dụng với tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng

Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.

Thời gian tạm giam, tạm giữ được trừ vào thời gian cải tạo không giam giữ

Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.

Bị khấu trừ thu nhập trong thời gian cải tạo không giam giữ

– Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người đó.

– Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hàng tháng.

Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án. Không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự.

Người bị cải tạo không giam giữ không có việc làm phải lao động phục vụ cộng đồng

Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.

– Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.

– Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.

cải tạo không giam giữ
cải tạo không giam giữ

Miễn, giảm hình phạt cải tạo không giam giữ

Trường hợp miễn chấp hành hình phạt

Tại khoản 2 Điều 62 Bộ luật hình sự quy định, người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

– Sau khi bị kết án đã lập công;

– Mắc bệnh hiểm nghèo;

– Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

Trường hợp được giảm hình phạt

Theo khoản 1 Điều 63 Bộ luật Hình sự, người bị kết án cải tạo không giam giữ nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ.

Lưu ý

  • Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính, cho nên Toà án còn có thể quyết định thêm hình phạt bổ sung mà Bộ luật có quy định đối với tội đó;
  • Việc khấu trừ thu nhập của người bị kết án để sung quỹ Nhà nước không phải là bắt buộc trong mọi trường hợp. Toà án cần căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, thu nhập thực tế và tình hình tài sản cũng như hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội để quyết định có khấu trừ thu nhập của họ hay không. Nếu có thì mức độ cụ thể là bao nhiêu.
  • Nếu người bị phạt cải tạo không giam giữ là người chưa thành niên thì không khấu trừ thu nhập của người đó;
  • Hình phạt cải tạo không giam giữ áp dụng với cả quân nhân phạm tội hay nói cách khác việc thay thế hình phạt cải tạo ò đon vị kỷ luật của quân đội bằng hình phạt cải tạo không giam giữ là một sự điều chỉnh hợp lý trên cơ sở tổng kết thực tiễn nhằm tạo điều kiện để người bị kết án được học tập, tu dưỡng và cải tạo tại chính tập thể nơi người phạm tội phục vụ, công tác.

So sánh cải tạo không giam giữ và án treo

Cải tạo không giam giữ và án treo là hai biện pháp thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội, để họ không bị cách ly khỏi xã hội, vẫn được làm việc, tự do hoạt động ở ngoài xã hội.

Tuy nhiên,  có thể phân biệt cải tạo không giam giữ và án treo qua các đặc điểm sau:

 

Cải tạo không giam giữ

Án treo

Căn cứ pháp lý

– Điều 36 Bộ luật Hình sự 2015

– Nghị định 60/2000/NĐ-CP của Chính phủ

– Thông tư liên tịch 09/2012/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC

– Luật Thi hành án hình sự 2010

– Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015

– Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao

– Luật Thi hành án hình sự 2010

Bản chất

Là hình phạt chính

Là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện

Điều kiện áp dụng

Phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng; Xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.

 

Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo.

Các trường hợp không được áp dụng

Vi phạm các điều kiện áp dụng trên

– Người phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

– Bỏ trốn và đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị truy nã.

– Phạm tội mới trong thời gian thử thách; người đang được hưởng án treo bị xét xử về một tội phạm khác thực hiện trước khi được hưởng án treo.

– Người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội

– Người phạm tội nhiều lần

– Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm

Thời hạn phạt, thử thách

Thời gian áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm

Được xét giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt.

Thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù, trong khoảng từ 01 năm – 05 năm.

Có thể được rút ngắn thời gian thử thách

Nghĩa vụ

– Làm bản cam kết nêu rõ nội dung quyết tâm và hướng sửa chữa lỗi lầm của mình và phải có ý kiến của người được phân công trực tiếp giám sát, giáo dục.

– Trường hợp đi khỏi nơi cư trú từ 03 tháng đến 06 tháng, thì phải có nhận xét của Công an cấp xã nơi người đó đến lưu trú hoặc tạm trú để trình UBND cấp xã được giao giám sát, giáo dục người đó.

– Ghi chép đầy đủ các nội dung quy định trong sổ theo dõi và nộp cho người trực tiếp giám sát, giáo dục khi hết thời hạn cải tạo không giam giữ;

– Khai báo và giao nộp đầy đủ phần thu nhập bị khấu trừ theo quyết định của Tòa án cho cơ quan thi hành án dân sự. Nếu không nộp đúng hạn thì phải chịu lãi suất theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

– Chấp hành đầy đủ các hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.

– Phải có công an cấp xã đến làm việc với UBND nơi được giao giám sát, giáo dục nếu đi khỏi nơi cư trú từ 03 tháng đến 06 tháng

 

 

Hậu quả khi vi phạm

Nếu vi phạm nghĩa vụ chấp hành án, đã bị nhắc nhở từ hai lần trở lên nhưng vẫn còn tiếp tục vi phạm thì sẽ bị kiểm điểm.

 

– Có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung.

– Cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì bị buộc chấp hành hình phạt tù của bản án được hưởng án treo.

– Phạm tội mới thì phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới.

Trên đây là một số nội dung Luật Trần và Liên Danh giới thiệu với bạn đọc về nội dung cải tạo không giam giữ, nếu có bất cứ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139