Đối với vô ý hủy hoại tài sản, người phạm tội không có nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài sản bị thiệt hại. Tài sản bị thiệt hại trong tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản là tài sản của công dân, của tổ chức xã hội, tổ chức nước ngoài… không phải là tài sản của Nhà nước. Vậy tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản được quy định thế nào? Có những cấu thành gì?
Trong bài viết dưới đây, Luật Trần và Liên Danh sẽ giới thiệu tới quý bạn đọc tội danh này, cụ thể như sau:
Thế nào là tội vô ý hủy hoại tài sản
Có thể hiểu, vô ý hủy hoại tài sản được hiểu là hành vi do cẩu thả hoặc vì quá tự tin gây ra thiệt hại về tài sản của người khác.
Tại Điều 180 Bộ luật hình sự 2015 tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản được quy định như sau:
“1. Người nào vô ý gây thiệt hại cho tài sản của người khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.
2. Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản của người khác trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Tư vấn và bình luận về tội vô ý hủy hoại tài sản
Các yếu tố cấu thành tội vô ý hủy hoại tài sản
Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội này có các dấu hiệu sau:
+ Về hành vi. Có hành vi gây thiệt hại đến tài sản của người khác. Được thể hiện như làm mất, làm hư hỏng tài sản… của người khác.
Ví dụ: Mượn xe gắn máy của người khác, không khoá xe để kẻ trộm lấy mất.
+ Về hậu quả. Thiệt hại tài sản phải đến mức độ nghiêm trọng thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Theo quy định của Điều luật (khoản 1) thì gây thiệt hại nghiêm trọng là trường hợp giá trị tài sản bị thiệt hại từ 100 triệu đồng trở lên. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.
Nếu giá trị tài sản bị thiệt hại dưới 100 triệu đồng thì người có hành vi gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm hình sự mà tuỳ theo đối tượng và trường hợp cụ thể họ chỉ chịu trách nhiệm dân sự, trách nhiệm vật chất, trách nhiệm kỷ luật hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính.
Lưu ý:
– Phân biệt tội này với tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp (Điều 179 Bộ luật Hình sự). Đối tượng xâm phạm của tội này không chỉ là tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp mà còn là tài sản của công dân, tổ chức xã hội, tổ chức nước ngoài… Người phạm tội ở tội này không phải là người có trách nhiệm trực tiếp quản lý tài sản bị thiệt hại. Điểm giống nhau giữa hai tội đều là lỗi vô ý.
Chủ thể của tội này không phải là người có nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài sản.
– Nếu hành vi vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản mà còn làm chết người, làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp, quy tắc hành chính; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; gây thương tích hoặc gây thiệt hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về những tội danh tương ứng nêu trên.
– Việc xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của người khác quy định ở tội này là người phạm tội không chiếm đoạt tài sản mà chỉ làm tài sản bị mất, hư hỏng.
– Thiệt hại về tài sản phải là hậu quả trực tiếp từ hành vi vô ý của người phạm tội, nếu không xuất phát từ mốì quan hệ nhân quả, thì không được tính để xác định hậu quả của tội này.
– Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm gây thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra là cho tài sản của người khác có giá trị từ 100.000.000 đồng trở lên.
Khách thể
Khách thể của tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản là quyền sở hữu tài sản của nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và công dân.
Đối tượng tác động của tội phạm này là tài sản, bao gồm vật, tiền.
Mặt chủ quan
Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản được thực hiện do lỗi vố ý. Dưới hình thức lỗi vô ý do quá tự tin, người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây thiệt hại nghiêm trọng đến tà sản của người khác trị giá từ 100.000.000 đồng trở lên nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
Còn dưới hình thức lỗi vô ý do cẩu thả, người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra thiệt hại cho tài sản của người khác trị giá từ 100.000.000 đồng trở lên, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Chủ thể
Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.
Người đủ năng lực trách nhiệm hình sự là người không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh tật làm mất khả năng nhận thức hoặc tự chủ hành vi của mình. Pháp luật Việt Nam dựa vào 2 tiêu chuẩn để xác định năng lực trách nhiệm hình sự: tiêu chuẩn y học và tiêu chuẩn tâm lý.
Theo tiêu chuẩn y học chủ thể tội phạm phải là người không đang trong thời kỳ mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác làm mất khả năng nhận thức và tự chủ hành vi của mình. Theo tiêu chuẩn tâm lý: chủ thể tội phạm phải là người nhận thức và tự chủ được hành vi của mình, là người hiểu được bản chất hành vi, điều khiển được hành vi.
Chủ thể tội phạm phải là người đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 12 Bộ luật Hình sự quy định: người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Độ tuổi theo quy định của Bộ luật Hình sự là tuổi tròn tính từ ngày tháng năm sinh đến ngày tháng năm sinh. Việc xác định độ tuổi được căn cư vào giấy khai sinh, sổ hộ khẩu. T
rường hợp không xác định được độ tuổi thì phải tiến hành giám định độ tuổi.
Về hình phạt tội vô ý hủy hoại tài sản
Mức hình phạt của tội này được chia thành hai khung, cụ thể như sau:
+ Khung một (khoản 1)
Có mức hình phạt là bị phạt cảnh cáo hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này nêu ở mặt khách quan.
+ Khung hai (khoản 2)
Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản của người khác trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Ví dụ tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản
Ví dụ: B mới mua chiếc xe ô tô nhãn hiệu Ferrari F12 Berlinetta với giá 20 tỉ đồng. A thấy thế xin B cho đi thử.
Vì quá thích thú nên A phóng nhanh, không quan sát các chướng ngại vật, khiến chiếc xe va quệt vào thanh chắn đường khiến chiếc xe bị gãy gương và xước sơn phía bên phải, tổng thiệt hại được định giá là 110.000.000 đồng
Hành vi của A đã cấu thành tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản được quy định tại điều 180 nêu trên.
Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Khi người phạm tội vô ý hủy hoại tài sản, người dó có thể được tăng nặng hoặc giảm nhẹ hình phạt, căn cứ vào các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:
Điều 52 quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bao gồm:
1. Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
d) Phạm tội có tính chất côn đồ;
đ) Phạm tội vì động cơ đê hèn;
e) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
g) Phạm tội 02 lần trở lên;
h) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;
i) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc17 người đủ 70 tuổi trở lên;
k) Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;
l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
m) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc18 tàn ác để phạm tội;
n) Dùng thủ đoạn hoặc19 phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội;
o) Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;
p) Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.
2. Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.
Điều 51 quy định Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Trên đây là một số nội dung về vô ý hủy hoại tài sản, nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.