Điều 124 BLHS năm 2015 giết con mới đẻ. Vậy thế nào là giết con mới đẻ? Khái niệm CON MỚI ĐẺ được quy định cụ thể là gì? Mức xử lý cho tội này là như thế nào? Có phải trong mọi trường hợp người giết con mới đẻ đều sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn giải đáp những thắc mắc trên.
Tội giết con mới đẻ bị phạt tù thế nào? Điều 124 BLHS năm 2015 giết con mới đẻ
Quy định chi tiết của Điều 124 BLHS năm 2015 giết con mới đẻ
Chi tiết Điều 124 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017
Điều 124. Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ
1. Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà vứt bỏ con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt cải tạo khônggiam giữ đến 02 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội giết con mới đẻ tại Điều 124 BLHS năm 2015
Các yếu tố cấu thành tội phạm của tội giết con mới đẻ như sau:
Chủ thể của tội phạm – Điều 124 Bộ luật hình sự
chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, cụ thể chủ thể ở đây là mẹ của đứa bé. Ngoài ra chủ thể đặc biệt còn thể hiện ở việc người mẹ đó phải vì ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết hoặc vứt con của mình mới đẻ ra. Nếu vì một lý do khác nào đó mà giết hoặc vứt bỏ con do mình mới đẻ ra thì không thuộc tội phạm này. Có thể hiểu, ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu là ảnh hưởng của tư tưởng cũ đã lỗi thời, không còn phù hợp với quan niệm về cuộc sống, lối sống hiện tại, không còn phù hợp với ý thức xã hội hiện tại.
Khách thể của tội phạm – Điều 124 Bộ luật hình sự
là quan hệ nhân thân của con người, cụ thể ở đây là quyền được sống của con người, được Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận. Đối tượng của hành vi là con được sinh ra trong vòng 7 ngày. Như vậy đối tượng của hành vi này là trẻ được sinh ra trong vòng 7 ngày, nếu đối tượng không phải trẻ được sinh ra trong vòng 7 ngày thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm khác được quy định trong Bộ luật dân sự.
Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 124 Bộ luật hình sự
Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.
Mặt khách quan của tội phạm – Điều 124 Bộ luật hình sự
Hành vi của tội phạm này gồm hành vi giết con mới đẻ hoặc hành hành vi vứt bỏ con mới đẻ. Hành vi giết con mới đẻ tương tự hành vi giết người, hành vi vứt bỏ con mới đẻ là hành vi bỏ rơi con mình ở bất kỳ địa điểm nào, mặc dù không dẫn đến hậu quả đứa trẻ bị chết thì vẫn cấu thành tội phạm này.
Như vậy, theo nội dung đã phân tích ở trên, chủ thể của tội phạm này phải là người mẹ. Cha không phải chủ thể của tội phạm này. Do vậy, hành vi cha giết con mới đẻ của mình sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh khác trong Bộ luật Hình sự, ở đây sẽ là Tội giết người.
Tại Điều 123 Bộ luật Hình sự quy định về Tội giết người như sau:
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
b) Giết người dưới 16 tuổi;
Tội giết người không có chủ thể đặc biệt, chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi xâm phạm tính mạng người khác với lỗi cố ý và dẫn đến hậu qủa người đó chết thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người.
Theo đó, nếu cha giết con mới đẻ của mình thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với trường hợp quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự: Giết người dưới 16 tuổi. Mức phạt tương ứng cho tội danh này là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Với khung hình phạt như vậy thì tội phạm này thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc cha giết con mới đẻ không những thuộc vào hành vi có tính chất đặc biệt nguy hiểm về mặt pháp lý, mà xét về mặt đạo đức xã hội, hành vi này còn vi phạm nghiêm trọng về đạo đức, bị xã hội lên án gay gắt.
Như vậy, cùng một hành vi là giết người con mới đẻ, nhưng được thực hiện bởi chủ thể khác nhau thì đã cấu thành các tội phạm khác nhau. Do đó, khi truy cứu trách nhiệm về hành vi này cần lưu ý đến các yếu tố cấu thành tội phạm, đặc biệt là yếu tố chủ thể.
Luật sư hình sự tư vấn mức hình phạt tội giết con mới đẻ tại Điều 124 BLHS năm 2015
Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 124 Bộ Luật hình sự: Theo quy định tại khoản 1 Điều 124 Bộ luật hình sự 2015, nếu người mẹ giết đứa con mới đẻ do mình trực tiếp sinh ra vì những nguyên nhân: chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu không còn phù hợp với suy nghĩ tiến bộ của xã hội, hay ở trong hoàn cảnh đặc biệt thì sẽ bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 124 Bộ Luật hình sự: Trong trường hợp người mẹ giết chết con mới đẻ nhưng không vì những nguyên nhân quy định tại khoản 1 Điều 124 Bộ luật hình sự 2015 thì lúc này sẽ bị truy tố hình sự về tội giết người theo quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự 2015. Mức xử phạt cho tội giết người có thể từ 12 năm đến 20 năm thậm chí là chung thân hoặc tử hình.
Việc đưa ra hình phạt thích đáng cho hành vi giết con mới đẻ nhằm răn đe cho những đối tượng có khả năng vi phạm để ngăn chặn sự xuống cấp trầm trọng của những chuẩn mực đạo đức xã hội. Từ đó đề cao sự bảo vệ của pháp luật đối với quyền sống còn của con người nói chung và quyền trẻ em nói riêng.
Điểm mới Điều 124 BLHS năm 2015
Điểm mới của Điều 124 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) về Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ như sau:
1. Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà vứt bỏ con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Theo đó, tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ được hiểu là trường hợp phạm tội của người mẹ do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi hoặc vứt bỏ con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết. Nạn nhân của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ là đứa trẻ do người mẹ sinh ra trong vòng 07 ngày tuổi. Kể từ ngày thứ 8 trở đi thì đứa trẻ đó không được coi là con mới đẻ nữa.
Hành vi khách quan là người mẹ thực hiện hành vi giết (bóp cổ, bỏ đói cho đến chết,…) hoặc hành vi vứt bỏ (bỏ vào rừng sâu không có ai qua lại, nhà hoang, thùng rác và đậy nắp,…) dẫn tới đứa trẻ không được ai phát hiện, cứu và bị chết. Hậu quả của hành vi là đứa trẻ bị giết hoặc bị vứt bỏ dẫn đến chết. Lỗi của chủ thể là người mẹ thực hiện hành vi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ với lỗi cố ý.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tội giết con mới đẻ Điều 124 BLHS năm 2015
Theo tại Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:
1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Như vậy, nếu có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trở lên theo quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 nêu trên, người thực hiện hành vi phạm tội có thể được xem xét giảm nhẹ hình phạt và tòa án sẽ xem xét và quyết đinh mức hình phạt cuối cùng.
Như vậy, khi làm việc với cơ quan chức năng, người phạm tội phải thành khẩn khai báo và hợp tác để được hưởng chính sách khoan hồng của nhà nước. Bên cạnh đó, cần có sự tham gia của Luật sư bào chữa cho bị cáo. Việc góp mặt của luật sư khi tham gia vụ án với tư cách người bào chữa không chỉ xác định chính xác tội danh mà còn khai thác tối đa các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị can, bị cáo.
Qua đó có thể thấy, tính nhân văn trong việc xử lý loại tội phạm này là chủ yếu nhằm giáo dục để người mẹ thấy trách nhiệm của mình đối với đứa con do mình đẻ ra, chống lại tư tưởng lạc hậu, định kiến, sai trái.Trên đây là một số nội dung Điều 124 BLHS năm 2015, nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.