Tội mua dâm người dưới 18 tuổi là gì? Mức phạt thế nào?

Tội mua dâm người dưới 18 tuổi là gì Mức phạt thế nào.

Bên cạnh các tội phạm về mại dâm như tội môi giới mại dâm, tội chứa mại dâm thì Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 còn quy định về tội mua dâm người dưới 18 tuổi. Loại tội phạm này ngày càng phổ biến, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống xã hội. Vậy Tội mua dâm người dưới 18 tuổi là gì? Mức phạt thế nào? 

Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 329 Bộ luật hình sự năm 2015

Điều 329 Bộ luật hình sự quy định tội mua dâm người dưới 18 tuổi như sau:

“Điều 329. Tội mua dâm người dưới 18 tuổi

Người nào đủ 18 tuổi trở lên mua dâm người dưới 18 tuổi trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 142 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Mua dâm 02 lần trở lên;

b) Mua dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;

c) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Phạm tội 02 lần trở lên đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;

b) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

Người phạm tội còn bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”

Dấu hiệu pháp lý của tội mua dâm người dưới 18 tuổi

Khách thể của tội phạm – Điều 329 Bộ luật hình sự

Mua dâm người chưa thành niên là hành vi dùng tiền hoặc lợi ích khác trả cho người bán dâm dưới 18 tuổi để được giao cấu.

Tội mua dâm người dưới 18 tuổi là tội xâm phạm đến sự phát triển bình thường của người chưa thành niên về thể chất, tâm sinh lý, đồng thời xâm phạm đến trật tự trị an xã hội.

Như vậy, khách thể của tội phạm là sức khỏe của người dưới 18 tuổi; truyền thống văn hóa, đạo đức, lối sống lành mạnh của dân tộc và trật tự công cộng.

Mặt khách quan của tội phạm Điều 329 Bộ luật hình sự

Mặt khách quan của tội phạm gồm 01 hành vi duy nhất là hành vi mua dâm. Mua dâm là hành vi dùng tiền hoặc lợi ích khác trả cho người bán dâm để được giao cấu.

Việc mua dâm có thể diễn ra không giống như việc mua bán hàng hoá bình thường khác nhất là đối với trẻ em từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Người bán dâm có thể bị cưỡng bức, bị mua chuộc dụ dỗ nên mới bán dâm; vì vậy, nếu trong quá trình giao cấu người được coi là “bán dâm” có biểu hiện của sự không đồng ý như chống cự, van xin hoặc miễn cưỡng để người mua dâm giao cấu thì tuỳ trường hợp người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm, cưỡng dâm, chứ không phải là mua dâm.

Người bán dâm là người chưa thành niên nhưng phải là từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi và những người này phải là người bán dâm.

Nếu họ không phải là người bán dâm hoặc dưới 13 tuổi thì cũng không gọi mua dâm mà tuỳ trường hợp người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm cụ thể.

Trường hợp nạn nhân là người dưới 13 tuổi thì người thực hiện hành vi mua dâm sẽ phải chịu trách nhiệm về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 142, kể cả nạn nhân dưới 13 tuổi muốn bán dâm.

Hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm hành vi mua dâm xảy ra.

Chủ thể của tội phạm Điều 329 Bộ luật hình sự

Chủ thể của tội phạm không phải chủ thể đặc biệt, bất kì ai cũng có thể là chủ thể của tội phạm này.

Chủ thể của tội phạm phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 thuộc Chương XXI Bộ luật hình sự. Điều 329 Bộ luật Hình sự đưa ra quy định cụ thể, người nào đủ 18 tuổi trở lên mua dâm người dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Như vậy, chủ thể của tội mua dâm người dưới 18 tuổi phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên.

Mặt chủ quan của tội phạm Điều 329 Bộ luật hình sự

Người phạm tội mau dâm người chưa thành niên thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức là người phạm tội biết rõ việc mình bỏ tiền hoặc lợi ích vật chất ra là để trả cho người bán dâm và được giao cấu với người bán dâm

Động cơ của người phạm tội là thoả mãn dục vọng là chủ yếu. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người phạm tội vì những động cơ cá nhân khác như trả thù, truyền bệnh cho người bán dâm…

Tội mua dâm người dưới 18 tuổi là gì Mức phạt thế nào.
Tội mua dâm người dưới 18 tuổi là gì Mức phạt thế nào?

Hình phạt đối với người phạm tội mua dâm người dưới 18 tuổi

Điều 329 Bộ luật Hình sự quy định 04 Khung hình phạt đối với cá nhân phạm tội như sau:

Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 329 Bộ Luật hình sự: Người nào đủ 18 tuổi trở lên mua dâm người dưới 18 tuổi trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 142 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 329 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

  • Mua dâm 02 lần trở lên;
  • Mua dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;
  • Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.

Mức hình phạt tại khoản 3 Điều 329 Bộ Luật hình sự:  Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

  • Phạm tội 02 lần trở lên đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;
  • Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

Mức hình phạt tại khoản 4 Điều 329 Bộ Luật hình sự: Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 329 BLHS năm 2015

Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:

Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;      

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 329 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139