Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

moi quan he bien chung giua luc luong san xuat va quan he san xuat

Triết học là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống xã hội của bất kỳ quốc gia nào. Triết học không chỉ tác động đến sự phát triển trong tư tưởng của con người mà nó còn tham gia vào quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia trên Thế giới. Trong đó mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chúng tồn tại song hành, không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng tạo thành quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Lực lượng sản xuất là gì?

Lực lượng sản xuất được hiểu là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được hình thành trong quá trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở thể hiện ở trình độ khống chế tự nhiên của con người. Đó là kết quả năng lực thực tiễn của con người tác động vào tự nhiện để tạo ra của casit vật chất nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của con người.

Các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, chủ yếu bao gồm hai yếu tố sau đây:

Tư liệu sản xuất;

Lực lượng con người

Trong đó, tư liệu sản xuất đóng vai tròng là một khách thể, còn con người luôn là chủ thể. 

Cụ thể, Lực lượng sản xuất bao gồm: tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động. Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất théo quen lao động, biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Theo đó, tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động, tư liệu lao động (công cụ lao động) và những tư liệu lao động khác.Trong đó, đối tượng lao động không phải là toàn bộ giới tự nhiên, mà chỉ là một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất, con người không chủ chỉ trong giới tự nhiên những đối tượng lao động có sẵn, mà còn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động.

Mối quan hệ giữa tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình với đối tượng lao động, chúng dẫn chuyển sự tác động của con người vào đối tượng lao động. Đối tượng lao động  và tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của quá trình lao động sản xuất hợp thành tư liệu sản xuất. Đối với mỗi thế hệ mới tư liệu lao động do thế hệ trước để lại và trở thành điểm xuất phát cho thế hệ tương lai. Vì vậy, những tư liệu lao động đó là cơ sở sự kế tục của lịch sử, Tư liệu lao đọng chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biên đối tượng lao động khi chúng kết hợp với đời sống. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lơn lao đống đêu nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng không thể phát huy được tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội.

Ý nghĩa của lực lượng sản xuất, cụ thể như sau:

Lực lượng sản xuất tạo ra tiền đề vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nó cũng là tiêu chí cơ bản để đánh giá sự tiến bộ xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định. Chính vì cậy, trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác khẳng định : “Lịch sử chẳng qua chẳng qua là sự tiếp nối của những thể hệ riêng lẽ trong đó mỗi thế hệ đều khai thác những vật liêu, những tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả những hế hệ trước để lại. Do đó, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục hoạt động được truyền lại, trong những hoàn cảnh đã thay đổi, và mặt khác, lại biến đổi những hoàn cảnh cũ bằng một hoạt động hoàn toàn thay đổi”;

Các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất thường xuyên có quan hệ chặt chẽ với nhua, Trong sự phát triển của hệ thống công cụ lao động và trình độ khoa học – kỹ thuật, kỹ năng lao đọng của con người đóng vai trò quyết định. Con người là nhân tố trung tâm, và là mục đích của nền sản xuất xã hội. Lê nin viết “Lực lượng sản xuất hàng đầu là toàn thể nhân loại công nhân, là người lao động”;

Người lao động với tư cách là một bộ phận lực lượng sản cuất xã hội phải là người có thể lực, có tri thức văn hóa, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có kinh nghiệm và thói quen tốt, phẩm chất tư cách lành mạnh, lương tâm nghề nghiệp và trách nhiệm cao trong công việc. Trước đây do chưa chú trọng đúng mức đến vị trí của người lao động, chúng ta chưa biết khai thác phát huy mọi sức mạnh của nhân tố con người. Mặc dù năng lực sản xuất và kinh nghiệm sản xuất của con người còn phụ thuộc vào những tư liệu sản xuất đang có mà họ đang sử dụng. Nhưng sự tích cực sáng tọa của người lao động đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế;

Nước ta là một nước giàu tài nguyên nhiên nhiê, có nhiều nơi mà con người chưa từng đặt chân đến nhưng nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và quá trinh công nghệ tiên tiến, con người có thể tạo ra được những sản phẩm mới có ý nghãi quyết định tới chất lượng cuộc sống và giá trị của nền văn minh nhân loại. Chính việc tìm kiếm ra các đối tượng lao động mới sẽ trở thành động lực cuốn hút mọi hoạt động của con người.

Tóm lại, lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực thực tiễn được sử dụng trong quá trình sản xuất của xã hội qua các thời kỳ nhất định. Về mặt cấu trúc thì lực lượng sản xuất bao gồm hệ thống những tư liệu sản xuất và sức lao động được dùng cho việc sản xuất. Trong đó:

Người lao động là chủ thể của quá trình lao động và sản xuất, Với sức mạnh, kỹ năng của bản thân, họ sử dụng các tư liệu lao động để tác động vào đối tượng và sản xuất ra của cải vật chất. Đây chính là yếu tố có vai trò quan trọng;

Tư liệu sản xuất chính là điều kiện vật chất cần thiết để có thể tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động là yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dùng tư liệu lao động để tác động lên, nhằm biến đổi chúng sao cho phù hợp với mục đích sử dụng nhất, Tư liệu lao động là yếu tố vật chất mà con người dùng để tác động trực tiếp lên đối tượng lao động. Tư liệu lao động gồm có công cụ lao động và phương tiện lao động.

Trong bất cứ một xã hội nào để có thể tạo ra của cải, vật chất không chỉ có các yếu tố về người lao động mà còn phải kết hợp thêm cả tư liệu sản xuất nữa. Bở lẽ nếu không có công cụ lao động phục vụ cho quá trình lao động thì con người sẽ không thể tác động được lên đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất. 

Quan hệ sản xuất là gì?

Quan hệ sản xuất xã hội được hiểu là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội: SẢN XUẤT – PHÂN PHỐI – TRAO ĐỔI – TIÊU DÙNG. Theo đó, Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ kinh tế – xã hội và quan hệ kinh tế tổ chức. Quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sông vật chất xã hội, nó tồn tại khách quan, độc lập với ý thức  của con người. Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế – xã hội. Đây là một kiểu quan hệ tiêu biểu cho bản chất kinh tế – xã hội nhất định.

Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất,, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người, quy luật về sự ohuf hợp quan hệ sản xuất với tình chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật này vạc rõ tính chất phụ thuộc khác quan của quan hệ sản xuất và phát triển của lực lượng sản xuất.

Thực tiễn cũng đã làm rõ mối quan hệ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất từ đó khẳng định sự tồn tại của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tạo động lực cho nền kinh tế phát triển. Lực lượng sản xuất phát triển đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp. Ví dụ như chủ nghĩa tư bản ra đời trên cơ sở phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và chính sản xuất hàng hóa với quy mô lơn và quan hệ thị trường đã phá vỡ quan hệ sản xuất phong kiến và hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, Trong tuyên ngôn của đảng cộng sản (2 – 1948), C. Mác và PH. Ănggghen nêu rõ: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chứ đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”.

– Lực lượng sản xuất tác động đến quan hệ sản xuất, cụ thể như sau:

Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi và phát triển đều do lực lượng sản xuất quyết định;

Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi các quan hệ sản xuất sao cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời thì quan hệ sản xuất sẽ phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đó;

Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định sẽ làm cho quan hệ sản xuất từ phù hợp trở thành không phù hợ với sự phát triển này. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu này dẫn đến sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới sao cho phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới thì phương thức sản xuất mới ra đời thay thế cho cái cũ.

moi quan he bien chung giua luc luong san xuat va quan he san
mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

– Quan hệ sản xuất tác động đến lực lượng sản xuất, cụ thể như sau:

Sự hình thành, biến đổi, phát triển của quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất;

Lực lượng sản xuất sẽ có quyết định quan hệ sản xuất. Nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động ngược trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất;

Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất và phân phố. Do đó sự trực tiếp gây ảnh hưởng đến thái độ của người lao động, chất lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất, cải tiến công cụ lao động. Sự tác động của quan hệ sản xuất lên lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng là tích cực hoặc tiêu cực. Tích cực là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nếu nó phù hợp, còn tiêu cực là kìm hãm lực lượng sản xuất khi nó không còn phù hợp.

Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó trở thành động lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời không còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, bộc lộ mâu thuẫn gay dắt với lực lượng sản xuất thì trở thành chướng ngại kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Song sự tác dụng kìm hãm đó chỉ là tạm thời, theo tính chất tất yếu khách quan thì nó srx bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.;

Quan hệ sản xuất có tác động mạnh mẽ đối với lực lượng sản xuất vì nó quy định mục đích của sản xuất, quy định hệ thống của tổ chức, quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng đến thái độ của lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội, nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thúc hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, hợp tác và phân công lao động. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất là một hệ thống, một chỉnh thể hữu cơ gồm ba mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó quan hệ sản xuất mới trở thành động lực thúc đẩy hành động nhằm phát triển sản xuất. 

– Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất qua sự tác động lẫn nhau, cụ thể như sau:

Sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội hợp thành phương thức sản xuất. Trong sự thống nhất biện chứng này, sự phát triển của lực lượng sản xuất đóng vai trò quýêt định đối với quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất thường xuyên vận động, phát triển nên qun hệ sản xuất cũng luôn luôn thay đổi nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Từ mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất làm hình hành quy luật quan hệ sản xuất phải phfu hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;

Đây là quy luật kinh tế chung của mọi phương thức sản xuất, Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản của sự phát triển loài người. Sự tác động của nó trong lịch sử làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái xã hội cao hơn.

Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chính là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại và không tách rời nhau. Hai yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau để tạo thành một quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây chính là quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển xã hội.

Trên đây là bài viết tham khảo được công ty Luật Trần và Liên Danh tổng hợp và phân tích về mối qaun hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp những thông tin hữu ích cho quý bạn đọc khi tìm hiểu về vấn đề này.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139