Hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam đã có những quy định về phòng, chống bệnh truyền nhiễm, kiểm dịch y tế biên giới, chống dịch, và các điều kiện bảo đảm cho công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm ở người được quy định trong Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm, trong bộ luật hình sự cũng có quy định về tội “ làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người”. Vậy Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người là gì? Mức phạt thế nào?
Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 240 Bộ luật hình sự 2015
Điều 240 Bộ luật hình sự quy định tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người như sau:
“Điều 240. Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người
Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Đưa ra hoặc cho phép đưa ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có khả năng lây truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
b) Đưa vào hoặc cho phép đưa vào lãnh thổ Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng lây truyền cho người;
c) Hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc Bộ trưởng Bộ Y tế;
b) Làm chết người.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 12 năm:
a) Dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ;
b) Làm chết 02 người trở lên.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Dấu hiệu pháp lý của tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người
Khách thể của tội phạm – Điều 240 Bộ luật hình sự
Khách thể của tội phạm là sự an toàn về tính mạng, sức khoẻ của con người và cộng đồng. Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người không trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của một ai nhưng lại là một nguy cơ tiềm ẩn sự nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của nhiều người.
Đối tượng tác động của tội phạm này là động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm đã bị nhiễm bệnh mà bệnh đó có khả năng lây lan sang người.
Động vật là các loài chim, thú, gia cầm, các loài tôm, cá, các loại côn trùng…được gọi chung là sinh vật có cảm giác và tự vận động được;
Sản phẩm động vật là thực phẩm được chế biến từ động vật hay nói cách khác là sản phẩm có nguồn gốc từ động vật như: Thịt động vật, xương động vật, sữa, các bộ phận khác lấy từ động vật…
Thực vật là các loại cây, rễ, củ, hoa, lá, quả, hạt… Sản phẩm thực vật là các loại sản phẩm được chế biến từ thực vật làm thức ăn cho người và gia súc hoặc phục vụ cho tiêu dùng, nghiên cứu khoa học như: dầu ăn, các loại nước được ép từ các loại hoa quả
Vật phẩm khác là những đồ vật có mang mầm bệnh và bệnh đó là bệnh dịch có khả năng lây lan sang người như các bao bì đựng các sản phẩm được chế biến từ động vật, thực vật.
Mặt khách quan của tội phạm – Điều 240 Bộ luật hình sự
Hành vi khách quan của tội phạm gồm 03 hành vi:
a) Đưa ra hoặc cho phép đưa ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có khả năng lây truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
Đưa ra là hành vi vận chuyển động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có khả năng lây truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người từ vùng đang có dịch bệnh đến vùng khác chưa có dịch bệnh.
Theo quy định của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2017:
Bệnh truyền nhiễm là bệnh lây truyền trực tiếp hoặc gián tiếp từ người hoặc từ động vật sang người do tác nhân gây bệnh truyền nhiễm.
Dịch là sự xuất hiện bệnh truyền nhiễm với số người mắc bệnh vượt quá số người mắc bệnh dự tính bình thường trong một khoảng thời gian xác định ở một khu vực nhất định.
Vùng có dịch là khu vực được cơ quan có thẩm quyền xác định có dịch.
Vùng có nguy cơ dịch là khu vực lân cận với vùng có dịch hoặc xuất hiện các yếu tố gây dịch.
Vùng chưa có dịch là khu vực được cơ quan có thẩm quyền xác định chưa có dịch.
Cho phép đưa ra là hành vi của người có chức vụ quyền hạn đồng ý cho vận chuyển động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có khả năng lây truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người mà không thực hiện các quy định về kiểm dịch.
b) Đưa vào hoặc cho phép đưa vào lãnh thổ Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng lây truyền cho người;
Đưa vào hoặc cho phép đưa vào Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng truyền cho người là hành vi nhập khẩu hoặc cho phép nhập khẩu vào Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng truyền cho người như: nhập gia cầm bị nhiễm bệnh sát (H5N1) từ Trung Quốc vào Việt Nam; nhập bò “điên” từ Úc vào Việt Nam,…
c) Hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người
Hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Tội phạm được coi là hoàn thành kể từ thời điểm hành vi khách quan xảy ra.
Chủ thể của tội phạm – Điều 240 Bộ luật hình sự
Chủ thể của tội phạm chỉ có thể là cá nhân. Người phạm tội có thể là bất kì ai, người Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch.
Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 240 Bộ luật hình sự
Người thực hiện hành vi phạm tội này là do cố ý, tức là nhận thức được hành vi của mình là làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người nhưng vì những động cơ khác nhau mà vẫn thực hiện hành vi mà pháp luật cấm.
Hình phạt đối với người phạm tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người
Điều 240 Bộ luật Hình sự quy định 04 Khung hình phạt đối cá nhân phạm tội như sau:
Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 240 Bộ Luật hình sự: Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
- Đưa ra hoặc cho phép đưa ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có khả năng lây truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
- Đưa vào hoặc cho phép đưa vào lãnh thổ Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng lây truyền cho người;
- Hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người.
Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 240 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
- Dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc Bộ trưởng Bộ Y tế;
- Làm chết người.
Mức hình phạt tại khoản 3 Điều 240 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 12 năm:
- Dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ;
- Làm chết 02 người trở lên.
Mức hình phạt tại khoản 4 Điều 240 Bộ Luật hình sự: Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 240 Bộ Luật hình sự 2015
Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:
Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 240 Bộ luật hình sự. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.