Giao dịch dân sự là loại giao dịch thường xuyên phát sinh trong đời sống xã hội. Mặc dù các GDDS diễn ra thường xuyên nhưng không phải bất kì GDDS nào cũng sẽ làm phát sinh hiệu lực giữa các bên. Thông qua bài viết dưới đây, Công ty Luật Trần và Liên Danh sẽ cung cấp cho bạn đọc thông tin cần biết về GDDS.
Giao dịch dân sự là gì?
Căn cứ theo Điều 116 Bộ luật Dân sự năm 2015:
“Điều 116. GDDS
GDDS là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Theo đó, GDDS là một sự kiện pháp lý gồm hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương. Việc các chủ thể xác lập hợp đồng nhằm hướng tới làm phát sinh các hậu quả pháp lý nhất định.
– Hợp đồng có sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của hai hay nhiều chủ thể làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự như hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng thuê tài sản… Trong số các loại GDDS, hợp đồng là loại giao dịch phổ biến nhất.
Ví dụ: Hai bên chủ thể xác lập hợp đồng thuê nhà ở thì bên cho thuê có quyền thu tiền thuê nhà, có nghĩa vụ giao nhà cho bên thuê sử dụng. Còn bên thuê có quyền sử dụng căn nhà, có nghĩa vụ trả tiền thuê theo thỏa thuận.
– Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch chỉ thể hiện ý chí của một bên chủ thể nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền nghĩa vụ như lập di chúc, hứa thưởng, thi có giải…
Đặc điểm của giao dịch dân sự
– Là sự kiện pháp lý thuộc hành vi pháp lý, luôn thể hiện ý chí tự nguyện của chủ thể tham gia (ít nhất thể hiện ý chí trước của 1 bên hoặc cả hai bên).
– Là loại sự kiện pháp lý phổ biến nhất và quan trọng nhất làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự.
GDDS dù là hợp đồng hay hành vi pháp lý đơn phương đều có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, GDDS luôn thể hiện ý chí của chủ thể trong giao dịch. GDDS là hợp đồng hay hành vi pháp lý đơn phương thì đều là hành vi có ý thức của chủ thể tham gia nhằm đạt được những mục đích nhất định.
Trường hợp GDDS là hợp đồng thì đó là sự thể hiện và thống nhất ý chí của từ các bên chủ thể. GDDS là hành vi pháp lý đơn phương thì đó là sự thể hiện ý chí của một bên chủ thể.
Nội dung của giao dịch phải nhằm truyền tải những suy nghĩ bên trong của mỗi chủ thể. Ý chí là những suy nghĩ bên trong của mỗi chủ thể nên để xác lập giao dịch thì ý chỉ cần phải được thể hiện ra bên ngoài dưới hình thức nhất định.
Do đó, GDDS là sự thống nhất giữa ý chí bên trong và sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài của chủ thể. Thiếu sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí, GDDS có thể bị vô hiệu.
Có nhiều nguyên nhân khác nhau khiến ý chí và sự bày tỏ ý chí của chủ thể không thống nhất như trường hợp chủ thể bị nhầm lẫn, bị lừa dối hay cưỡng ép trong việc xác lập giao dịch. Ví dụ: A muốn mua một chiếc bình cổ nhưng do bị người bán lừa dối nên chiếc bình A mua là bình giả cổ.
Thứ hai, hậu quả pháp lý của GDDS đều hướng đến phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ dân sự cho các chủ thể.
GDDS là hành vi của một hay nhiều chủ thể nhằm hướng tới việc làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Như vậy, hậu quả pháp lý của GDDS gồm:
+ Một là, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự: đây là trường hợp GDDS làm xác lập quyên và nghĩa vụ cho các bên chủ thể trong giao dịch.
Ví dụ: A thỏa thuận bán cho B căn hộ chung cư. GDDS giữa A và B có hậu quả pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa A và B. Trong đó, A có quyền nhận tiền bán căn hộ, có nghĩa vụ chuyển giao căn hộ và chuyển quyền sở hữu cho B. Còn B có quyền được nhận chuyển giao và sở hữu căn hộ, có nghĩa vụ trả tiền mua bán cho A.
+ Hai là, làm thay đổi quyền và nghĩa vụ dân sự: đây là trường hợp giữa các bên chủ trong GDDS đã tồn tại quyền và nghĩa vụ với nhau nhưng các bên thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung qua đó làm thay đổi quyền và nghĩa vụ của mình cũng như của bên kia;
Ba là, làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự: đây là trường hợp giữa các bên chủ trong GDDS đã tồn tại quyền và nghĩa vụ với nhau. Sau đó, các bên chủ thể xác lập giao dịch để làm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đang tồn tại giữa các bên.
Một GDDS được xác lập có thể làm phát sinh một hoặc nhiều hậu quả pháp lý. Điều này phụ thuộc vào thỏa thuận giữa các bên chủ thể trong giao dịch.
Như vậy, GDDS có hai đặc điểm chính: (i) GDDS phải là sự thể hiện ý chí của chủ thể tham gia và (ii) sự thể hiện ý chí phải nhằm đạt được một hậu quả pháp lý nhất định.
Các loại giao dịch dân sự
Có 2 loại GDDS:
– Hành vi pháp lý đơn phương: là giao dịch thể hiện ý chí của một bên chủ thể nhằm phát sinh quan hệ dân sự mà không cần ý chí của các chủ thể khác. Hành vi pháp lý đơn phương có thể do một hoặc nhiều chủ thể ở cùng một bên bày tỏ ý chí. Ví dụ: Lập di chúc chung.
Trong nhiều trường hợp hành vi pháp lý đơn phương chỉ phát sinh hậu quả pháp lý khi có điều kiện do chủ thể bày tỏ ý chí đặt ra, phía bên kia phải đáp ứng mới làm phát sinh nghĩa vụ của bên bày tỏ ý chí đơn phương. Ví dụ: phát sinh nghĩa vụ trả lương.
– Hợp đồng dân sự: là giao dịch thể hiện sự thống nhất ý chí của hai hay nhiều bên chủ thể ở hai phía của giao dịch, làm phát sinh, thay đổi . chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Ví dụ: hợp đồng mua bán xe đạp.
=> GDDS là hành vi pháp lý đơn phương hay hợp đồng đều có thể là giao dịch có điều kiện.
Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Theo Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015, để một GDDS phát sinh hiệu lực thì cần phải đảm bảo những điều kiện sau:
– Chủ thể trong GDDS phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với GDDS được xác lập;
Chủ thể trong GDDS bao gồm cá nhân và pháp nhân. Bộ luật Dân sự cũng đã quy định cụ thể về năng lực pháp luật và năng lực hành vi đối với hai chủ thể trên.
– Chủ thể tham gia GDDS hoàn toàn tự nguyện;
Bản chất của GDDS là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí, cho nên “tự nguyện” bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chí. Không có tự do ý chí và bày tỏ ý chí không thể có tự nguyện, nếu một trong hai yếu tố này không có hoặc không thống nhất cũng không thể có tự nguyện.
– Mục đích và nội dung của GDDS không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội;
– Hình thức của GDDS cũng là một trong những điều kiện có hiệu lực của GDDS.
GDDS có thể được xác lập dưới hình thức bằng lời nói, bằng văn bản hoặc một hành vi cụ thể. Người xác lập GDDS có quyền lựa chọn hình thức của GDDS đó và pháp luật chỉ quy định những hình thức GDDS bắt buộc đối với một số GDDS cụ thể (như là yêu cầu phải lập thành văn bản, phải có chứng nhận, chứng thực, đăng kí, xin phép). Trong trường hợp pháp luật có quy định GDDS phải được thể hiện bằng văn bản, phải được công chứng, đăng kí hoặc phải xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.
Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu
Theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2015, một GDDS nếu không có một trong các điều kiện nêu trên thì vô hiệu, trừ trường hợp khác. Theo đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định cụ thể 07 trường hợp GDDS bị vô hiệu.
GDDS vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội
Theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015, GDDS có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
GDDS vô hiệu do giả tạo
Theo Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015, khi các bên xác lập GDDS một cách giả tạo nhằm che giấu một GDDS khác thì GDDS giả tạo vô hiệu, còn GDDS bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.
Đồng thời trường hợp xác lập GDDS giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì GDDS đó vô hiệu.
GDDS vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện
Căn cứ tại Điều 125 Bộ luật Dân sự năm 2015, khi GDDS do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ những trường hợp sau:
– GDDS của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;
– GDDS chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;
– GDDS được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.
GDDS vô hiệu do bị nhầm lẫn
Theo quy định tại Điều 126 Bộ luật Dân sự năm 2015, trường hợp GDDS được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố GDDS vô hiệu.
Tuy nhiên, nếu trong trường hợp mục đích xác lập GDDS của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập GDDS vẫn đạt được thì GDDS do nhầm lẫn trên sẽ không bị vô hiệu.
Vậy thì, thế nào được coi là nhầm lẫn? Hiện nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào đưa ra một khái niệm cụ thể nên nhầm lẫn ở đây có thể hiểu là việc các bên trong giao dịch hình dung sai về nội dung của giao dịch mà tham gia vào giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc bên kia, sự nhầm lẫn xuất phát từ nhận thức các bên hoặc phán đoán sai lầm về đối tượng của sự việc, sự nhầm lẫn phải được thể hiện rõ ràng mà căn cứ vào nội dung của giao dịch phải xác định được.
Nếu bên nhầm lẫn chứng minh được sự nhầm lẫn của mình thì giao dịch có thể bị tuyên bố vô hiệu.
GDDS vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép
Căn cứ tại Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:
– Lừa dối trong GDDS là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của GDDS nên đã xác lập giao dịch đó.
– Đe dọa, cưỡng ép trong GDDS là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện GDDS nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.
Theo đó, khi một bên tham gia GDDS do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố GDDS đó là vô hiệu.
GDDS vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ hành vi của mình
Theo Điều 128 Bộ luật Dân sự năm 2015, người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố GDDS đó là vô hiệu.
GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
Theo nguyên tắc chung, các chủ thể được tự do lựa chọn hình thức của giao dịch. Chỉ những giao dịch pháp luật quy định bắt buộc phải được thể hiện bằng văn bản, phải có chứng thực, chứng nhận, đăng ký hoặc xin phép mà các bên không tuân thủ quy định này mới bị vô hiệu.
Căn cứ theo Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015, có hai trường hợp khi GDDS không tuân thủ quy định về hình thức nhưng vẫn được Tòa án công nhận hiệu lực khi có yêu cầu của một bên hoặc các bên là:
– GDDS đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch
– GDDS đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch.
Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự bị vô hiệu
Theo Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015, khi một GDDS bị tuyên bố vô hiệu sẽ dẫn đến các hậu quả pháp lý sau:
– Không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm GDDS được xác lập
– Khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả bằng hiện vật thì sẽ dùng trị giá bằng tiền để hoàn trả,
– Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
– Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường
Căn cứ pháp lý:
– Bộ luật Dân sự năm 2015
Trên đây là bài viết giao dịch dân sự của Luật Trần và Liên Danh. Nếu có thắc mắc hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn miễn phí.