Bản kiểm điểm đảng viên công an

bản kiểm điểm đảng viên công an

Sự ra đời của Đảng là một cột mốc đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, những thành viên của Đảng giữ vai trò vị trí vô cùng quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ Đảng viên nói riêng và đối với Nhà nước nói chung. Việc đánh giá, tự kiểm điểm của Đảng viên, cán bộ, công chức có vai trò rất lớn, bài viết dưới đây của Luật Trần và Liên danh sẽ phân tích cho các bạn về bản kiểm điểm đảng viên công an.

Bản kiểm điểm đảng viên công an là gì?

Bản kiểm điểm đảng viên công an do cá nhân lập ra để tự đánh giá, nhận xét mức độ lỗi, những sai sót mắc phải của bản thân, từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm về khuyết điểm, rút kinh nghiệm trong những lần sau

Bản kiểm điểm đảng viên công an là bản tự kiểm điểm dùng cho các cá nhân để trình bày những sai sót, khuyết điểm mà mình mắc phải để từ đó rút ra được kinh nghiệm trong những thời gian tới. Khi cá nhân thực hiện một hành vi nào đó vi phạm kỷ luật thì sẽ cần có bản kiểm điểm đảng viên công an để tự kiểm điểm lại bản thân và nộp cho cơ quan có thẩm quyền.

Bản kiểm điểm Đảng viên là mẫu văn bản bản được dành riêng cho các đối tượng là Đảng viên, qua đó có thể tự đánh giá mức độ lỗi của bản thân khi mắc phải, đồng thời ý thức trách nhiệm của bản thân và rút kinh nghiệm cam kết không tái phạm.

Nội dung chính bản kiểm điểm đảng viên công an.

Phần 1: Thông tin cá nhân của người lập biên bản gồm:

  • Họ tên,
  • Ngày tháng năm sinh,
  • Quê quán,
  • Địa chỉ thường trú,
  • Nghề nghiệp,
  • Đơn vị công tác.

Phần 2: Tự đánh giá về ưu điểm.

  • Người lập biên bản cần tự nhìn nhận và đưa các ưu điểm của bản thân trong 3 mảng: tư tưởng chính trị; phẩm chất đạo đức, lối sống; thực hiện các nhiệm vụ được giao.

Phần 3: Tự đánh giá về khuyết điểm

  • Người lập biên bản cần trung thực nhìn nhận những nhược điểm của bản thân, dũng cảm nói ra đồng thời đưa ra cách khắc phục.

Tại sao lại cần Bản kiểm điểm đảng viên công an?

Thứ nhất: Tự kiểm điểm phê  bình giúp Đảng viên tự soi rọi, nghiêm khắc, thật thà thừa nhận những  khuyết điểm của mình để tìm cách sửa chữa.

Mỗi Công chức  sẽ  được phân công làm việc tại các cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức khác thuộc nhà nước. Là những cơ quan quan trọng của nhà nước  góp phần  thực hiện chức năng quản lý và định hướng xã hội.

 Chính vì vậy cần tự phê  bình, kiểm điểm cá nhân  mình trong quá trình làm việc, thực hiện nhiệm vụ được giao và cả lối sống cá nhân. Đảng viên là lực lượng lòng cốt lãnh đạo đất nước, làm gương và tạo lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước Việt Nam.

Thứ hai: Tự phê bình và phê bình góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng.

Trách nhiệm nêu gương của Đảng viên công an

Thứ nhất, nêu gương là thực hành đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Người thuyết phục Nhân dân và nhân loại không chỉ bằng mục tiêu chân chính, tốt đẹp của cách mạng Việt Nam, bằng trí tuệ xuất chúng của một nhà tổ chức tài ba, mà còn bằng tấm gương đạo đức cao cả. Được khích lệ bởi tấm gương đạo đức của Người, lớp lớp cán bộ, đảng viên của Đảng đã tự nguyện chiến đấu, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng và góp phần làm nên “pho lịch sử bằng vàng” của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong công tác cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Người khẳng định: “Kháng chiến là một lò đúc cán bộ”; “Kháng chiến lại là một viên đá thử vàng đối với cán bộ”, bởi theo Người, cách mạng “là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Người chỉ rõ, để làm tròn sứ mệnh của mình, Đảng không chỉ có lý luận tiên phong dẫn đường là chủ nghĩa Mác – Lênin, mà Đảng còn phải tiêu biểu cho đạo đức và văn hóa.

Đạo đức cách mạng là nền tảng, gốc rễ làm cho bản chất Đảng được giữ vững và phát huy, quyền lực không bị biến dạng và tha hóa, nhân cách đảng viên không bị suy thoái, hư hỏng; bảo đảm cho Đảng làm tròn sứ mệnh của đội tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn dân tộc.

Người nêu ra một mệnh đề quan trọng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Đạo đức giúp người cán bộ, đảng viên luôn tiền phong, gương mẫu trước mọi nhiệm vụ, “Đảng viên đi trước, làng nước đi sau”.

Người chỉ rõ, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do đó, để tập hợp lực lượng quần chúng nhân dân, vận động quần chúng, được quần chúng tin tưởng, sẵn sàng tham gia và hy sinh cho sự nghiệp cách mạng thì người cán bộ, đảng viên của Đảng phải nêu gương.

Nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra nhiều loại bệnh đã phát sinh trong cán bộ, đảng viên. Đó là những bệnh trái ngược với đạo đức cách mạng, như tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ, hữu danh vô thực, quan liêu, bàn giấy, xa dân, ham danh vị, chủ quan, hình thức, ích kỷ, hủ hóa,…

Người cho rằng, nguồn gốc chung của tất cả những thứ bệnh đó là do “chủ nghĩa cá nhân” mà ra: “Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”. “Chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách mạng, nếu nó còn lại trong mình, dù là ít thôi, thì nó sẽ chờ dịp để phát triển, để che lấp đạo đức cách mạng, để ngăn trở ta một lòng một dạ đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng”.

Người căn dặn: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”9. Để làm được điều đó, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng cần phải tiến hành thường xuyên, liên tục, để rèn luyện và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng thấm nhuần đạo đức cách mạng, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, để Đảng luôn “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.

bản kiểm điểm đảng viên công an
bản kiểm điểm đảng viên công an

Thứ hai, nêu gương là một nội dung trọng tâm xuyên suốt và là một phương thức lãnh đạo của Đảng.

Đảng ta là đảng cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đó là tất yếu khách quan của lịch sử, là sứ mệnh nặng nề nhưng vinh quang của Đảng, được Nhân dân giao phó. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ to lớn trước dân tộc, Đảng phải là đội tiên phong lãnh đạo, vì vậy, mọi cán bộ, đảng viên của Đảng cũng phải là những chiến sĩ tiên phong, gương mẫu.

Đảng không những phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, mà còn phải có phương thức lãnh đạo khoa học, hoạch định được đường lối, chủ trương đúng đắn và có năng lực tổ chức đưa những đường lối, chủ trương đó vào cuộc sống, biến thành hành động sáng tạo của hàng chục triệu con người, tạo được những chuyển biến xã hội tích cực vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ cách thức Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội, trong đó đặc biệt đề cao nhiệm vụ phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của đảng viên và coi đó là một phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng. Nếu Đảng phát huy tốt trách nhiệm nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng thì hiệu quả đạt được sẽ vô cùng to lớn bởi nó có sức lan tỏa sâu rộng, có khả năng hiệu triệu đông đảo Nhân dân tin Đảng, yêu Đảng và theo Đảng. Ngược lại, nếu người cán bộ, đảng viên của Đảng không cố gắng tu dưỡng rèn luyện, không giữ được mình “làm mực thước” thì hậu quả cũng vô cùng nguy hại, sẽ làm hạ thấp uy tín của Đảng, làm giảm sút niềm tin của Nhân dân đối với Đảng.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã thu hút, tập hợp, rèn luyện được một đội ngũ cán bộ, đảng viên cách mạng nhất, ưu tú nhất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Thành tựu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng, đổi mới đất nước đã khẳng định những đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Tuy nhiên, trước những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế…, một bộ phận cán bộ, đảng viên đã bị suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 01/1994), Đảng ta đã chỉ ra những biểu hiện của tình trạng này, coi đó là một trong “bốn nguy cơ” cần phải quan tâm đấu tranh phòng, chống, và sau đó Đảng thường xuyên đánh giá kỹ lưỡng vấn đề này tại các kỳ Đại hội và nhiều hội nghị Trung ương tiếp theo.

Hội nghị Trung ương 4 khóa XII nhấn mạnh: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy Nhà nước… sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”.

Thực trạng này gây hậu quả rất nặng nề, làm suy giảm niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, gây bất bình trong xã hội và làm tổn thương đến uy tín, thanh danh của Đảng, nếu không được ngăn chặn và đẩy lùi sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Vì vậy, Đảng ta xác định việc ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ vừa cơ bản lâu dài, vừa có ý nghĩa cấp bách trong công tác xây dựng Đảng. Tâm trạng xã hội và ý nguyện của Nhân dân lúc này là thiết tha mong muốn, đồng thời nghiêm khắc đòi hỏi Đảng phải trong sạch, vững mạnh, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải là tấm gương trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Thứ ba, trước yêu cầu của tình hình mới, cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ, đảng viên Công an nhân dân phải coi thực hành nêu gương là trách nhiệm, là đạo lý, góp phần xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh toàn diện, củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải luôn xác định, nêu gương là bổn phận, nghĩa vụ, trách nhiệm, đạo lý, tức là nêu gương phải mang tính tự giác, tự nguyện, trở thành một nhu cầu văn hóa trong lẽ sống và nếp sống hằng ngày. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự mình nêu gương, tự mình làm gương cho người khác noi theo, làm theo. Nêu gương là cách thức mà mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng thể hiện trách nhiệm cao nhất trước Đảng, trước Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đảng là gì? Đảng là mỗi chúng ta.

Đảng lớn lên là do mỗi chúng ta lớn lên”. Cán bộ, đảng viên giữ chức vụ càng cao càng phải coi trọng trách nhiệm nêu gương; nêu gương một cách thiết thực, chân thành.

Thời gian qua, Đảng ta đã ban hành nhiều quy định yêu cầu cán bộ, đảng viên của Đảng, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, phải nêu cao tính tiền phong, gương mẫu: Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị; Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương. Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên không chỉ là sự tự nguyện, tự giác, mà còn mang tính kỷ cương, kỷ luật của Đảng.

Bối cảnh tình hình mới hiện nay đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao hơn, nhiệm vụ ngày càng nặng nề hơn đối với mỗi cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ, đảng viên lực lượng Công an nhân dân trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng cạnh tranh chiến lược, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra phức tạp và gay gắt hơn. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với các quốc gia – dân tộc. Chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, tình hình tranh chấp trên Biển Đông… đang tạo ra những diễn biến phức tạp, khó lường trong khu vực và trên thế giới.

Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, “bốn nguy cơ” mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh âm mưu “diễn biến hòa bình” hòng chống phá cách mạng Việt Nam.

Tình hình an ninh, trật tự được giữ vững nhưng vẫn còn những nhân tố tiềm ẩn đe dọa đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự sẽ còn diễn biến phức tạp, tội phạm luôn tìm mọi cách để tác động, lôi kéo, mua chuộc, gài bẫy hòng khống chế, lung lạc ý chí, làm tha hóa phẩm chất, phai nhạt lý tưởng của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân.

Tình hình đó đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó có nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đòi hỏi lực lượng Công an nhân dân phải nâng cao quyết tâm chính trị, dự báo chính xác tình hình, chủ động thích ứng với mọi tình huống, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Trước yêu cầu của tình hình mới, trên cơ sở Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, Đảng ủy Công an Trung ương đã ban hành Quy định số 136-QĐ/ĐUCA, ngày 06/8/2012 về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Ngày 25/10/2018, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Quy định số 08-QĐi/TW về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Trên cơ sở đó, ngày 28/01/2019, Đảng ủy Công an Trung ương đã ban hành Quy định số 01-QĐi/ĐUCA-X03 về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Ban Thường vụ, Ủy viên Đảng ủy Công an Trung ương, Ủy viên Ban Thường vụ và người đứng đầu công an các đơn vị, địa phương, trong đó đặt ra những nguyên tắc cơ bản, như: phải tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân; thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”, tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, tư cách đảng viên, tư cách người Công an cách mạng, nêu cao ý thức phục vụ Nhân dân; chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, nói đi đôi với làm…

Những nội dung này tựu trung lại yêu cầu toàn thể cán bộ, đảng viên, trước hết là lãnh đạo, chỉ huy trong Công an nhân dân phải gương mẫu, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; phải là hạt nhân đoàn kết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuệ tập thể; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; mẫu mực về đạo đức, lối sống; không làm bất cứ việc gì có hại cho Đảng, cho đất nước, Nhân dân, cho danh dự và truyền thống của Công an nhân dân.

Mẫu bản kiểm điểm đảng viên công an (Đảng viên)

ĐẢNG BỘ …………

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

CHI BỘ: …………………..

………….., ngày …. tháng… năm…..

BẢN TỰ KIỂM ĐIỂM ĐẢNG VIÊN

NĂM ………..

Họ và tên: ………………. Ngày sinh: ………………….

Chức vụ Đảng: Đảng viên (Trong trường hợp là người có chức vụ, ghi rõ chức vụ)

Chức vụ chính quyền: (nếu có)…………………………….

Chức vụ đoàn thể: (nếu có)…………………………………

Đơn vị công tác:

Chi bộ:

Về tư tưởng chính trị:

– Có quan điểm chính trị kiên định, luôn trung thành với đường lối của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; trung thành, tin tưởng vào chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

– Luôn chấp hành tốt các quan điểm, chủ trương đường lối và các Nghị quyết của Đảng, thực hiện đúng các quy định của pháp luật;

– Luôn có tinh thần tự giác cao trong việc học tập, công tác, không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ lý luận chính trị chuyên môn nghiệp vụ, cũng như năng lực công tác.

Về phẩm chất đạo đức, lối sống:

– Luôn có ý thức tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng; tuyên truyền pháp luật, thực hiện đúng các quy định của pháp luật;

– Là Đảng viên, tôi luôn trung thực, hòa nhã với mọi người, thẳng thắn, có ý thức xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất của Đảng;

– Luôn lắng nghe ý kiến đóng góp, góp ý của nhân dân, có mối quan hệ gắn bó, thân thiết với nhân dân, luôn tôn trọng và phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân;

– Kiên quyết, tích cực đấu tranh với những biểu hiện sai trái, chia rẽ, làm mất đoàn kết, không nể nang hoặc có ý tư thù đối với người góp ý, luôn có thái độ tôn trọng và lắng nghe ý kiến, góp ý của mọi người để điều chỉnh lời nói, việc làm của bản thân;

– Có lối sống trong sạch, gương mẫu, lành mạnh, không mê tín dị đoan; không rượu chè, cờ bạc, không có quan hệ nam nữ bất chính; kê khai trung thực, đúng số tài sản và thu nhập cá nhân hàng năm; không tham ô, không lãng phí, không có tiếp tay, bao che cho hành vi tham ô, lãng phí; không nhận hối lộ, đưa hối lộ, không chạy/không chấp nhận việc chạy chức, chạy quyền.

Về thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao:

– Có tinh thần trách nhiệm cao, đạt kết quả cao trong việc thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao, cụ thể:

* Về công tác chuyên môn:……………………

* Về công tác Chi bộ:………… (nếu có thành tích cụ thể thì ghi rõ như: Được Huyện ủy tặng bằng khen, được Tỉnh ủy tặng bằng khen,…)

– Hoàn thành tốt nghĩa vụ của công dân nơi cư trú; thực hiện tốt các công việc mà bên Chi bộ giao.

Về ý thức tổ chức kỷ luật:

– Thực hiện đúng các nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc tổ chức, hoạt động và sinh hoạt của Đảng, chấp hành đúng sự phân công, cũng như sự điều động của Chi bộ, đơn vị đang công tác;

– Luôn thực hiện nề nếp, chế độ sinh hoạt Đảng và đóng Đảng phí theo quy định;

– Tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt Đảng, đợt sinh hoạt chính trị theo quy định của địa phương, Điều lệ Đảng;

– Chấp hành đúng các nội quy, quy định của địa phương, đơn vị công tác, chi bộ Đảng;

– Có thái độ cầu thị trong việc nhận sửa chữa, khắc phục khuyết điểm.

Kết quả phát huy những ưu điểm trước đó, khắc phục và sửa chữa các khuyết điểm, yếu kém:

– Luôn luôn giữ vững, kiên định lập trường trong công tác giáo dục tư tưởng chính trị. Tuyệt đối chấp hành các quy định, quy chế về Đảng viên, tích cực trau dồi kiến thức, học tập và tham gia đầy đủ các lớp tập huấn về Đảng viên theo quy định;

– Xây dựng Đảng ủy, Chi bộ đảng, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, đơn vị, cơ quan, tổ chức trong sạch, vững mạnh và ngày càng tiến bộ;

– Thực hiện tốt tất cả các nguyên tắc mà Đảng ủy, Chi bộ đề ra;

– Giải quyết các công việc một cách hiệu quả, đã biết linh hoạt, mềm dẻo trong giải quyết công việc.

Hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân:

– Các kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ còn hạn chế, chưa dành nhiều thời gian để nghiên cứu, tìm hiểu sâu về các chủ trương, chính sách và các Nghị quyết, Quy định của Đảng; kiến thức pháp luật còn hạn chế;

– Chưa mạnh dạn đưa ra các đề xuất, tham mưu để có những giải pháp phù hợp nhằm phát huy tốt hơn nữa trong hoạt động của Chi bộ, Đảng ủy cũng như trong công tác chuyên môn của bản thân;

– Còn e dè, không tự tin đưa ra các đóng góp ý kiến, các đề xuất mới trong sinh hoạt Chi bộ vì còn thiếu tự tin, lo lắng và có sự nể nang tình cảm trong công tác phê bình và tự phê bình các đồng chí, đồng nghiệp.

Phương hướng và biện pháp khắc phục, sửa chữa yếu kém, khuyết điểm trong thời gian tới:

– Trong thời gian tới sẽ cố gắng phát huy ưu điểm, khắc phục về góp ý phê bình và tự phê bình cho đồng nghiệp, mạnh dạn, tích cực tham gia đóng góp ý kiến hơn trong sinh hoạt chi bộ. Trong quá trình giải quyết công việc phải linh hoạt, chủ động nhưng thận trọng, thể hiện thái độ kiên quyết, cứng rắn trong đấu tranh hạn chế tối đa các hành vi tham ô, tham nhũng, sai trái của các đồng chí, đồng nghiệp từ đó góp phần xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh;

– Tự giác học tập, tích cực nghiên cứu, cập nhật kiến thức, cập nhật các nội dung mới, văn bản pháp luật mới để không ngừng nâng cao trình độ, năng lực công tác, tạo cơ sở để tuyên truyền các kiến thức pháp luật, các chính sách của Đảng ủy và Nhà nước tới mọi công dân;

– Tự ý thức về việc rèn luyện bản chất vô tư, khách quan, trung thực, mạnh dạn và nói thẳng, nói thật, chân thành;

– Thường xuyên, tích cực tu dưỡng và rèn luyện đạo đức lối sống để nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ.

Tự nhận mức xếp loại chất lượng Đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức:

+ Xếp loại đảng viên: Đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ.

+ Xếp loại cán bộ, công chức: Hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ.

NGƯỜI TỰ KIỂM ĐIỂM

(Ký, ghi họ tên)

ĐÁNG GIÁ, PHÂN LOẠI CHẤT LƯỢNG ĐẢNG VIÊN

  1. Nhận xét, đánh giá của chi bộ:

…………………………………………………………

…………………………………………………………

Chi bộ phân loại chất lượng: ……………………

………….., ngày ……tháng…..năm 20…

T/M CHI BỘ

BÍ THƯ

  1. Đảng ủy, chi ủy cơ sở phân loại chất lượng:…………………

…………, ngày ……tháng…..năm 20…

T/M ĐẢNG ỦY

Trên đây là bài viết tư vấn về bản kiểm điểm đảng viên công an của Luật Trần và Liên danh. Nếu có thắc mắc hãy gọi cho chúng tôi theo số Hotline: 0969 078 234 để được tư vấn miễn phí.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139