Những cá nhân, tổ chức khi thực hiện hành vi xâm phạm đến các quy tắc quản lý nhà nước hoặc làm những việc trái với quy định trong các văn bản pháp luật hành chính sẽ phải gánh chịu trách nhiệm hành chính, là những hậu quả bất lợi do Nhà nước áp dụng xử lý. Vậy trách nhiệm hành chính được hiểu như thế nào? độ tuổi chịu trách nhiệm hành chín? Các quy định của pháp luật hiện nay liên quan đến trách nhiệm hành chính ra sao?.
Căn cứ pháp lý
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Trách nhiệm hành chính là gì?
Trách nhiệm hành chính là một dạng của trách nhiệm pháp lý được áp dụng trong hoạt động quản lý – hoạt động hành chính nhà nước theo quy định của luật hành chính. Đó là sự áp dụng những biện pháp cưỡng chế hành chính mang tính chất xử phạt hoặc khôi phục lại những quyền và lợi ích bị xâm hại được quy định trong những chế tài của quy phạm pháp luật hành chính bởi cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền đối với những chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính.
Do đó trách nhiệm hành chính thể hiện sự phản ứng tiêu cực của nhà nước đối với chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính, kết quả là chủ thể đó phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, bị thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần.
Đặc điểm của trách nhiệm hành chính
Trách nhiệm hành chính chỉ đặt ra đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính.
Truy cứu trách nhiệm hành chính đối với cá nhân, tổ chức vi phạm là việc chủ thể có thẩm quyền áp dụng một trong các hình thức xử phạt đối với cá nhân, tổ chức này.
Trách nhiệm hành chính là trách nhiệm pháp lý của tổ chức, cá nhân vi phạm trước Nhà nước. Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính xâm hại đến trật tự quản lý nhà nước và chỉ Nhà nước mới có quyền áp dụng chế tài đối với các chủ thể đó, do vậy trách nhiệm của cá nhân, tổ chức phải gánh chịu trước Nhà nước.
Việc truy cứu trách nhiệm hành chính được thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật hành chính.
Độ tuổi chịu trách nhiệm hành chính
– Trách nhiệm hành chính: Người dưới 14 tuổi
Những người dưới 14 tuổi được xếp vào nhóm không có năng lực trách nhiệm hành chính, tuy nhiên nếu nhận thấy có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng thì các cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét để đưa ra hình phạt.
Cụ thể, theo Khoản 1 Điều 90 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn như sau: “Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự”
Như vậy người chưa đủ 14 tuổi trong trường hợp thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa thì những chủ thể đó sẽ phải chịu trách nhiệm hành chính là chịu giáo dục, quản lý tại nơi cư trú. Thời hạn áp dụng biện pháp này được quy định tại khoản 2 điều 89 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về biện pháp giáo dục tại xã, phường thị trấn là từ 03 tháng đến 06 tháng.
Ngoài ra, về chủ thể từ đủ 12 đến dưới 14 tuổi khi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự thì các chủ thể này sẽ phải chịu biện pháp xử lý đưa vào trường giáo dưỡng. Thời hạn áp dụng biện pháp này được quy định tại Khoản 3 Điều 91 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là từ 06 tháng đến 12 tháng.
– Trách nhiệm hành chính: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
Những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi là những người chưa thành niên, được xếp vào nhóm những người có năng lực trách nhiệm hành chính hạn chế. Những chủ thể này sẽ phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi khi thực hiện những hành vi có tính chất cố ý. Việc cố ý phạm lỗi được hiểu là chủ thể thực hiện hành vi vi phạm là người có năng lực điều khiển hành vi, nhận thức, nhận thấy hậu quả và mong muốn điều đó xảy ra.
Về trách nhiệm hành chính mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải gánh chịu khi cố ý thực hiện những hành vi vi phạm hành chính cũng có một số biện pháp tương tự với xử lý người vi phạm từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi như: Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
Tuy nhiên biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng chỉ được áp dụng khi xét thấy không có biện pháp nào khác phù hợp hơn.
Ngoài ra với những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi vi phạm hành chính có thể bị áp dụng xử lý những hình phạt chính được quy định trong Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, cụ thể là biện pháp cảnh cáo. Khi xử phạt theo hình thức cảnh cáo thì các cán bộ, công chức có thẩm quyền phải lập biên bản đi kèm.
Lưu ý: Không áp dụng hình thức xử phạt tiền cho những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Việc này được quy định rõ ràng tại Khoản 3 Điều 134 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 đó là: “Trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến duới 16 tuổi vi phạm hành chính thì không áp dụng hình thức phạt tiền”.
Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có quy định về các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên, như vậy khi xem xét mức độ vi phạm và căn cứ vào các biện pháp xử lý, áp dụng trách nhiệm hành chính theo quy định thì các cơ quan có thẩm quyền xét xử có thể áp dụng biện pháp thay thế xử lý bao gồm: Nhắc nhở; quản lý tại gia đình.
Hai biện pháp này được quy định cụ thể tại Điều 139 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về nhắc nhở và Điều 140 luật này quy định về quản lý tại gia đình.
– Trách nhiệm hành chính: Người từ đủ 16 tuổi trở lên
Những người từ đủ 16 tuổi trở lên được xếp vào nhóm có năng lực trách nhiệm hành chính đầy đủ. Những chủ thể này sẽ phải gánh chịu trách nhiệm hành chính cho mọi hành vi vi phạm hành chính của mình mà không cần phải căn cứ vào ý chí chủ quan của người đó.
Trong nhóm đối tượng này được chia làm hai nhóm, là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và người từ đủ 18 tuổi trở lên.
Với những người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hành chính nhẹ hơn những người từ đủ 18 tuổi trở lên, cụ thể căn cứ theo Khoản 3 Điều 134 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về nguyên tắc xử lý: “Trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính bị phạt tiền thì mức tiền không quá ½ mức tiền phạt áp dụng đối với người thành niên, trường hợp không có tiền nộp phạt hoặc không có khả năng thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải thực hiện thay”.
Các quy định về xử phạt vi phạm hành chính
Xử phạt vi phạm hành chính là gì
Xử phạt vi phạm hành chính là hành vi của các chủ thể có thẩm quyền, căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính.
Đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính
Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính.
Xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện bởi các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hành chính.
Xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành theo những nguyên tắc, thủ tục được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
Kết quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính phải được thể hiện ở quyết định xử phạt vi phạm hành chính do chủ thể có thẩm quyền xử phạt ban hành.
Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính
Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính khác áp dụng trong quá trình xử phạt vi phạm hành chính.
Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính gồm:
– Cảnh cáo;
– Phạt tiền;
– Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn;
– Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính (sau đây gọi chung là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;
– Trục xuất.
Hình thức cảnh cáo, phạt tiền chỉ được quy định và áp dụng là hình thức xử phạt chính. Các hình thức còn lại có thể được quy định là hình thức phạt bổ sung hoặc hình thức phạt chính.
Đối với mỗi vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính chỉ bị áp dụng một hình thức xử phạt chính; có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung. Hình thức phạt bổ sung chỉ được áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính.
Các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra: Đối với mỗi vi phạm hành chính, ngoài việc bị áp dụng hình thức xử phạt, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả tại khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Đó là những biện pháp sau:
– Buộc khôi phục tình trạng ban đầu ;
– Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép;
– Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh…
Biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng độc lập trong trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Các biện pháp ngăn chặn và đảm bảo việc xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại Điều 19 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012:
– Tạm giữ người;
– Áp giải người vi phạm;
– Tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy phép chứng chỉ hành nghề;
– Khám người;
– Khám phương tiện vận tải, đồ vật;
– Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;
– Quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất;
– Giao cho gia đình, tổ chức quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính;
– Truy tìm đối tượng phải chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong trường hợp bỏ trốn.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả
Theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thuộc về những chủ thể sau:
Thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
Thẩm quyền của Công an nhân dân
Thẩm quyền của Bộ đội biên phòng
Thẩm quyền của Cảnh sát biển
Thẩm quyền của Hải quan
Thẩm quyền của Kiểm lâm
Thẩm quyền của cơ quan Thuế
Thẩm quyền của quản lý thị trường
Thẩm quyền của Thanh tra
Thẩm quyền của Cảng vụ hàng hải, Cảng vụ hàng không, Cảng vụ đường thủy nội địa
Thẩm quyền của Tòa án nhân dân
Thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự
Thẩm quyền của Cục quản lý lao động ngoài nước
Thẩm quyền của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài.
Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
Thủ tục ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính: Khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính của cá nhân, tổ chức người có thẩm quyền đang thi nhà công vụ có quyền buộc chấm dứt hành vi vi phạm hành chính. Buộc chấm dứt hành vi vi phạm hành chính được thực hiện bằng lời nói, còi, hiệu lệnh, văn bản hoặc hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Có hai loại thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đó là: Xử phạt vi phạm hành chính theo thủ tục đơn giản và thủ tục xử phạt theo thủ tục lập biên bản.
Thủ tục xử phạt không lập biên bản được áp dụng trong xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000đ đối với cá nhân, 500.000đ đối với tổ chức. Trường hợp này người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt tại chỗ.
Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản được áp dụng đối với mức phạt tiền cao hơn mức phạt tiền tối đa đối với những trường hợp xử phạt theo thủ tục đơn giản. Thủ tục này gồm các bước sau:
Một là, lập biên bản về hành vi vi phạm hành chính;
Hai là, xem xét ra quyết định xử phạt;
Ba là, thi hành quyết định xử phạt.
Việc sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ trong việc phát hiện vi phạm hành chính phải tuân theo quy định tại Điều 64 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Kết quả thu thập được bằng phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ phải được ghi nhận bằng văn bản và chỉ được sử dụng trong xử phạt vi phạm hành chính.