Di sản thừa kế là tài sản riêng của người đã chết cùng với đó là phần tài sản chung với người khác. Sau khi người để di sản chết di sản thừa kế sẽ được chuyển cho người thừa kế.
Cá nhân trước khi chết có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; người thừa kế có thể hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Theo quy định tại Điều 678 Bộ luật dân sự 2005 thì:
“Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật này”.
Vấn đề quyền và nghĩa vụ của người đang là con nuôi của người khác trong mối quan hệ với gia đình cha mẹ để của mình được quy định rất khác nhau qua các thời kì, cụ thể như sau:
+ Trước năm 1959 theo quy định của Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung kỳ (khi pháp luật của thời thực dân, phong kiến vẫn được chọn lọc để áp dụng tạm thời trong chế độ mới) thì người con nuôi có quyền lợi và nghĩa vụ như con đẻ. Người con nuôi không chỉ có quyền thừa kế theo pháp luật của cha mẹ nuôi mà còn có quyền thừa kế theo pháp luật của cha mẹ đẻ và của những người khác cùng huyết thống (anh, chị, em ruột); đồng thời nếu người đó đang là con nuôi của người khác mà chết trước cha mẹ đẻ thì các con của người đó vẫn được hưởng thừa kế thế vị.
+ Từ năm 1959 (thời điểm đình chỉ áp dụng pháp luật của chế độ thực dân, phong kiến) cho đến khi có Thông tư số 594/TANDTC, ở nước ta đã không có một văn bản pháp luật nào quy định giải quyết những tranh chấp về quyền thừa kế liên quan đến vấn đề này. Chỉ khi Thông tư 594/TANDTC được ban hành thì vấn đề trên mới được đề cập. Theo đó, con nuôi và bố mẹ nuôi được thừa kế theo pháp luật của nhau ở hành thừa kế thứ nhất. Nhưng người đang làm con nuôi của người khác lại không có quyền thừa kế theo pháp luật của bố mẹ đẻ và của những người cùng huyết thống khác. Chính vì vậy, con của người đang làm con nuôi của người khác cũng sẽ không được thừa kế thế vị hưởng di sản của ông, bà nội, ngoại trong trường hợp cha, mẹ đẻ của họ chết trước ông, bà nội, ngoại. Tuy nhiên, nếu con nuôi chết trước cha mẹ nuôi thì con của người con nuôi đó được thừa kế thế vị hưởng di sản của ông bà nuôi khi họ qua đời. Tinh thần trên của Thông tư 594/TANDTC tiếp tục được thể hiện tại Thông tư 81/TANDTC về thừa kế có nhân tố con nuôi, cụ thể, Thông tư 81/TANDTC đã quy định rằng:
“Con nuôi và bố mẹ nuôi có quyền thừa kế lẫn nhau. Con nuôi (hợp pháp hay thực tế) không được thừa kế theo luật đối với di sản của bố mẹ đẻ và anh, chị, em ruột”.
1. Quyền hưởng thừa kế theo pháp luật của con nuôi
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015 về người thừa kế theo pháp luật, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất có quyền hưởng di sản đầu tiên khi người để lại di sản chết bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
Vậy giữa con đẻ và con nuôi có sự phân biệt nào khi chia di sản thừa kế không? Hiện nay theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, cụ thể là quy định tại khoản 2 Điều 651 thì tất cả những người thừa kế thuộc cùng một hàng thì sẽ được hưởng phần di sản là bằng nhau. Như vậy, khi chia thừa kế giữa con nuôi và con đẻ là bình đẳng về quyền hưởng thừa kế.
Con nuôi vẫn có quyền hưởng di sản bình thường nếu người đó không có văn bản từ chối hưởng di sản sản hoặc không thuộc trường hợp không được hưởng di sản theo quy định tại Điều 621 về những người không được quyền hưởng di sản cụ thể như sau:
“Điều 621. Người không được quyền hưởng di sản
1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.”
2. Con nuôi được hưởng thừa kế theo pháp luật của người chết được hiểu như thế nào
Theo quy định tại Luật Nuôi con nuôi năm 2010, Con nuôi được hiểu là người được nhận làm con nuôi sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký.
Về quyền và nghĩa vụ mà con nuôi được hưởng theo quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 tại khoản 1 Điều 78 như sau: “1. Cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi có quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con được quy định trong Luật này kể từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi được xác lập theo quy định của Luật nuôi con nuôi.”
Như vậy, để quan hệ giữa cha mẹ nuôi – con nuôi được pháp luật công nhận, theo quy định thì các bên phải thực hiện các thủ tục về nhận nuôi con nuôi theo quy định. Tuy nhiên, nhằm đảm bảo tối đa quyền và lợi ích của người nuôi con nuôi khi chưa đăng ký trước ngày luật nuôi con nuôi năm 2010 có hiệu lực, pháp luật vẫn sẽ công nhận quan hệ nuôi con nuôi trong một số trường hợp ngoại lệ đó là mặc dù chưa được cơ quan có thẩm quyền đăng ký nhưng vẫn phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi – con nuôi. Cụ thể, quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy đinh như sau:
“Điều 50. Điều khoản chuyển tiếp
1. Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau trước ngày Luật này có hiệu lực mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được đăng ký trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi;
b) Đến thời điểm Luật này có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn sống;
c) Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con.”
3. Điều kiện để được công nhận là con nuôi
Không phải trường hợp nào gọi là con nuôi cũng được pháp luật chấp nhận hưởng quyền thừa kế như con đẻ. Để được công nhận là con nuôi hợp pháp phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của Luật Nuôi con nuôi 2010.
Cụ thể:
– Người nhận nuôi và con nuôi đều phải đáp ứng những điều kiện sau:
+ Người nhận nuôi phải có hành vi dân sự đầy đủ; Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; Có điều kiện sức khỏe, kinh tế, chỗ ở; Có tư cách đạo đức tốt.
+ Con nuôi ở thời điểm được nhận nuôi phải là trẻ em dưới 16 tuổi; Nếu từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì chỉ được cha dượng, mẹ kế; cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.
– Việc nhận con nuôi trong nước phải được đăng ký tại UBND cấp xã nơi thường trú của con nuôi hoặc người nhận nuôi; Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nếu có yếu tố nước ngoài.
Khi được cơ quan đăng ký cấp Giấy chứng nhận nuôi con nuôi, quan hệ con nuôi với cha mẹ nuôi mới chính thức được xác lập. Khi cha mẹ nuôi chết, con nuôi mới được hưởng quyền thừa kế theo pháp luật như con đẻ.
4. Câu hỏi
Câu hỏi: Thưa luật sư cho tôi hỏi vấn đề như sau: Tôi năm nay 32 tuổi. Cách đây hai năm, tôi được bà B nhận làm con nuôi. Sau đó không lâu, mẹ nuôi tôi mất, có để lại một căn nhà nhưng không để lại di chúc. Tôi đòi chia một nửa căn nhà nhưng người con ruột của mẹ nuôi không đồng ý với lý do tôi không có quyền thừa kế. Tôi được biết pháp luật về thừa kế không có sự phân biệt con nuôi hay con ruột. Vậy tôi có thể khởi kiện để đòi quyền lợi cho mình hay không? Tôi xin cảm ơn luật sư nhiều
Trả lời: Cảm ơn bản đã gửi câu hỏi, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:
Nếu mẹ nuôi bạn mất không để lại di chúc thì phần tài sản của mẹ nuôi bạn sẽ được chia theo quy định của pháp luật cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại ĐIều 651 Bộ luật dân sự 2015.
Điều 651quy định những người thừa kế thuộc hàng thứ nhất bao gồm: “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.”
Dựa trên nguyên tắc không phân biệt đối xử trong quan hệ hôn nhân và gia đình, pháp luật quy định những người thừa kế cùng hàng thừa kế sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau mà không phân biệt con đẻ, con nuôi.
Như vậy mẹ nuôi bạn mất không để lại di chúc và việc bạn là con nuôi nhưng bạn vẫn có quyền hưởng phần di sản thừa kế của mẹ bạn để lại ngang với con đẻ. Tuy nhiên, quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chỉ được xác lập khi:
– Tại thời điểm nhận nuôi con nuôi, việc nuôi con nuôi được đăng ký tại UBND xã, phường, thị trấn nơi thường trú của cha mẹ nuôi hoặc con nuôi;
– Trường hợp việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế mà chưa đăng ký trước ngày 1/1/2011, nếu đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật nuôi con nuôi 2010 thì được đăng ký kể từ ngày 1/1/2011 đến hết ngày 31/12/2015 tại UBND cấp xã nơi thường trú của cha mẹ nuôi và con nuôi (căn cứ khoản 1 Điều 23 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi).
Khoản 1 Điều 50 Luật nuôi con nuôi quy định điều kiện gồm:
“a) Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi;
b) Đến thời điểm Luật này có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn sống;
c) Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con.”
Với trường hợp của bạn, năm nay bạn 32 tuổi và thời điểm anh 30 tuổi bạn có nhận quan hệ mẹ nuôi tuy nhiên xét theo quy định tại Luật nuôi con nuôi 2010 thì bạn không đủ điều kiện để làm thủ tục nhận nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật. Do đó, bạn không thuộc trường hợp được hưởng di sản thừa kế.