Những năm gần đây, việc đưa và nhận hối lộ trong các cơ quan, tổ chức là vấn đề nhức nhối bị cả xã hội lên án.
Trong đó, hành vi môi giới hối lộ là một trong những tác nhân quan trọng không thể thiếu. Vậy tội môi giới hối lộ bị xử phạt thế nào?
Môi giới hối lộ là gì?
Môi giới hối lộ là (hành vi) làm trung gian giữa người nhận và người đưa hối lội theo yêu cầu của một trong hai bên hoặc của cả hai.
Hành vi môi giới hối lộ tạo điều kiện cho việc đạt được sự thỏa thuận hoặc để thực hiện sự thỏa thuận về đưa và nhận hối lộ.
Môi giới hối lộ được biểu hiện qua nhiều hành vi đa dạng như:
– Giới thiệu người đưa hối lộ với người nhận hối lộ;
– Thúc đẩy, tạo điều kiện để hai bên đưa và nhận hối lộ xúc với nhau;
– Người môi giới có thể gặp người nhận hối lộ để truyền đạt thông tin, yêu cầu từ người đưa hối lộ hoặc ngược lại. Việc làm này có thể diễn ra một lần hoặc nhiều lần;
– Thu xếp, bố trí thời gian, địa điểm để người đưa và nhận hối lộ gặp nhau. Trong một số trường hợp, người môi giới có thể có mặt trong cuộc gặp giữa người đưa hối lộ và người nhận hối lộ để chứng kiến hoặc tham gia vào việc đưa và nhận hối lộ.
Môi giới hối là một trong những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm hoạt động của các cơ quan, tổ chức. Do vậy, môi giới hối lộ bị Bộ luật Hình sự Việt Nam coi là tội phạm.
Quy định của pháp luật về tội đưa hối lộ, môi giới hối lộ
Chủ thể tội đưa, môi giới hối lộ
Chủ thể của tội đưa hối lộ, môi giới hối lộ là bất kì cá nhân nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Mặt chủ quan tội đưa, môi giới hối lộ
Tội đưa hối lộ, môi giới hối lộ chỉ xảy ra khi người thực hiện có hành vi cố ý. Người thực hiện mặc dù nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật và lường trước được hậu quả của hành vi đó nhưng vẫn thực hiện.
Hành vi khách quan tội đưa, môi giới hối lộ
Tội đưa hối lộ
Người phạm tội có hành vi đưa tài sản hoặc lợi ích vật chất cho người có chức vụ, quyền hạn dưới bất kì hình thức nào. Hành vi này có thể xảy ra trước hoặc xảy ra sau việc người nhận hối lộ thực hiện yêu cầu của người đưa hối lộ.
Dấu hiệu bắt buộc: người thực hiện hành vi có của hối lộ là lợi ích vật chất hoặc phi vật chất có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần.
Tội môi giới hối lộ
Người phạm tội có hành vi làm trung gian, móc nối giữa người đưa và người nhận hối lộ bằng cách: chuyển yêu cầu của người đưa đến người nhận để người nhận thực hiện hoặc đứng ra tổ chức để các bên gặp nhau và thỏa thuận hối lộ.
Môi giới hối lộ không bắt buộc hậu quả xảy ra nhưng giá trị của hối lộ có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần sẽ cấu thành tội phạm.
Các dấu hiệu pháp lý của tội môi giới hối lộ Điều 365 Bộ luật Hình sự 2015
Chủ thể của tội phạm – Điều 365 Bộ luật Hình sự
Cũng như đối với tội đưa hối lộ, chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, người phạm tội không nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn và cũng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.
Việc nhà làm luật quy định tội phạm này trong chương “các tội phạm về chức vụ” là vì khách thể của tội phạm chứ không phải vì chủ thể của tội phạm.
Tuy nhiên, người phạm tội làm môi giới hối lộ cũng có thể là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để làm môi giới hối lộ, nhưng không phải là bắt buộc đối với tội phạm này.
Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người không có chức vụ, quyền hạn thì họ chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này khi đủ tuổi (16 tuổi trở lên) và có năng lực trách nhiệm hình sự.
Khách thể của tội phạm – Điều 365 Bộ luật Hình sự
Khách thể của tội làm môi giới hối lộ là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào chế độ; làm cho cán bộ, công chức ở cơ quan, tổ chức bị thoái hoá biến chất.
Làm môi giơi hối lộ chính là hành vi giúp sức, tiếp tay không chỉ cho một tội phạm mà cho nhiều tội phạm mà thể là tội nhận hối lộ và tội đưa hối lộ.
Mặt khách quan của tội phạm – Điều 365 Bộ luật Hình sự
Hành vi khách quan:Người phạm tội chỉ có hành vi khách quan duy nhất là làm môi giới giữa người đưa và nhận hối lộ.
Nhưng biểu hiện của hành vi làm môi giới hối lộ rất đa dạng.
Người có hành vi môi giới hối lộ có thể gặp người nhận hối lộ để gợi ý thăm dò và đưa ra những yêu cầu của người đưa hối lộ hoặc nhận lời với người nhận hối lộ là sẽ tìm gặp người đưa hối lộ để đưa ra những điều kiện của người nhận hối lộ.
Việc làm này có thể chỉ diễn ra một lần hoặc có thể diễn ra nhiều lần.
Người có hành vi môi giới hối lộ có thể chỉ thu xếp, bố trí thời gian, địa điểm để người đưa hối lộ và người nhận hối lộ tiếp xúc, giao thiệp với nhau về việc đưa và nhận hối lộ.
Cũng có trường hợp người môi giới hối lộ có mặt trong cuộc tiếp xúc giữa người đưa hối lộ và người nhận hối lộ để chứng kiến hoặc tham gia vào việc đưa và nhận hối lộ.
Khi xác định hành vi làm môi giới hối lộ cần phân biệt với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi hoặc hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Nếu hành vi tuy có tính chất làm môi giới hối lộ nhưng người có hành vi đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi” theo Điều 385 Bộ luật Hình sự.
Nếu hành vi tuy có tính chất làm môi giới hối lộ nhưng người có hành vi đã lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi” theo Điều 366 Bộ luật Hình sự.
Nếu hành vi tuy có tính chất làm môi giới hối lộ nhưng người có hành vi đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người đưa hối lộ thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “lửa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174Bộ luật Hình sự.
Tuy nhiên, người bị chiếm đoạt tài sản là người đưa hối lộ nên họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đưa hối lộ và của hối lộ sẽ bị tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Hậu quả: hậu quả của tội môi giới hối lộ không phải dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.
Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 365 Bộ luật Hình sự
Tội làm môi giới hối lộ người thực hiện hành vi phạm tội là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là làm môi giới hối lộ, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn việc đưa và nhận hối lộ được thực hiện, hoặc tuy không mong muốn nhưng có ý thức bỏ mặc cho việc đưa và nhận hối lộ xảy ra.
Người làm môi giới hối lộ có nhiều động cơ khác nhau, có thể vì tình cảm, có thể vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác; động cơ phạm tội không phải là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này.
Tuy nhiên, các cơ quan tiến hành tố tụng cần xác định động cơ để làm căn cứ khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội.
Mức hình phạt đối với tội môi giới hối lộ
Tội môi giới hối lộ được quy định tại Điều 365 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 365 Bộ Luật hình sự: Phạt tiền từ 20 đến dưới 200 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm khi môi giới hối lộ mà của hối lộ thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất trị giá từ 02 đến dưới 100 triệu đồng;
– Lợi ích phi vật chất.
Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 365 Bộ Luật hình sự: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp:
– Phạm tội có tổ chức;
– Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
– Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
– Biết của hối lộ là tài sản của Nhà nước;
– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
– Phạm tội 02 lần trở lên;
– Của hối lộ trị giá từ 100 đến dưới 500 triệu đồng.
Mức hình phạt tại khoản 3 Điều 365 Bộ Luật hình sự: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm khi phạm tội thuộc trường hợp của hối lộ trị giá từ 500 triệu đến dưới 01 tỷ đồng.
Mức hình phạt tại khoản 4 Điều 365 Bộ Luật hình sự: Phạt tù từ 08 năm đến 15 năm khi phạm tội thuộc trường hợp của hối lộ trị giá trên 01 tỷ đồng.
Như vậy, theo quy định trên, trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất có giá trị dưới 02 triệu đồng thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Người phạm tội mội giới hối lộ có thể bị phạt tiền đến dưới 200 triệu, phạt tù tới 15 năm.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 20 – 200 triệu đồng. Người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Bên cạnh đó, việc môi giới hối lộ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước cũng bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 365 như trên.
Tóm lại, người thực hiện hành vi môi giới hối lộ trong tất cả các cơ quan, tổ chức trong và ngoài Nhà nước tại Việt Nam đều có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Trường hợp được xem là không có tội, miễn trách nhiệm hình sự
Tội đưa hối lộ
Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.
Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hay toàn bộ của đã dùng hối lộ
Tội môi giới hối lộ
Người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác thì có thể được miến trách nhiệm hình sự.
Đây là quy định mang tính khoan hồng nhằm phòng ngừa chung, đồng thời tạo điều kiện để đấu tranh với các tội phạm tham nhũng (tội nhận hối lộ và tội đưa hối lộ).
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 365 Bộ luật hình sự 2015
Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:
Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Như vậy, trên đây là toàn bộ thông tin và nội dung tư vấn pháp luật của Luật Trần và Liên Danh liên quan đến tội môi giới hối lộ. Mọi thắc mắc xin liên hệ qua Hotline: Công ty luật uy tín để được giải đáp nhanh chóng, chu đáo và miễn phí!