Tư vấn luật về hôn nhân gia đình: Là dịch vụ luật sư tư vấn trực tuyến qua số điện thoại tổng đài của Luật Trần và Liên danh. Tôn chỉ hoạt động nhằm giải quyết vướng mắc các vấn đề phát sinh liên quan đến hôn nhân gia đình ngày càng phổ biến như ly hôn, tranh chấp tài sản chung vợ chồng, quyền nuôi con. Tư vấn luật hôn nhân luôn có luật sư giỏi trực tiếp giải đáp chỉ cần khách hàng nhấc điện thoại gọi về số tổng đài. Đội ngũ luật sư công ty luật chuyên hôn nhân gia đình tại huyện Phúc Thọ Luật Trần và Liên danh luôn luôn lắng nghe và thấu hiểu tâm lý và đưa ra hướng xử lý vừa hợp tình, hợp lý và đúng quy định pháp luật.
Tại sao Bạn nên chọn Luật sư của công ty luật chuyên hôn nhân gia đình tại huyện Phúc Thọ Luật Trần và Liên danh?
+ Chất lượng của đội ngũ luật sư tranh tụng đã được khẳng định -> Chúng tôi có đội ngũ luật sư hùng hậu trong đó có nhiều luật sư chuyên trách về pháp luật trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Sau hơn 10 năm xây dựng và phát triển Luật Trần và Liên danh đã xây dựng thành công thương hiệu dựa trên chính hoạt động tư vấn và tranh tụng tại tòa án.
+ Thái độ tận tâm, tận tình và chuyên nghiệp -> Thấu hiểu những tranh chấp pháp lý trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, Chúng tôi tiếp cận các vụ án hôn nhân gia đình với thái độ và tinh thần chuyên nghiệp để đảm bảo sự công tâm, khách quan của từng vụ việc.
Với năng lực, kinh nghệm và đội ngũ luật sư, Chúng tôi luôn sẵn sàng tư vấn, hỗ trợ khách hàng với chất lượng dịch vụ tư vấn cao nhất.
Sự khác nhau về mặt pháp lý giữa thuận tình ly hôn và đơn phương ly hôn
Việc phân biệt thế nào là thuận tình ly hôn, thế nào là đơn phương ly hôn đã có nhiều luật sư giải đáp. Và có lẽ, ngay chữ “đơn phương” với “thuận tình” (hay còn gọi là “đồng thuận”), tự nó cũng đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau này. Do vậy, Tôi chỉ phân biệt hai hình thức ly hôn dưới góc độ pháp lý, những thuận lợi, khó khăn, quyền và nghĩa vụ… giữa ly hôn đơn phương và ly hôn đồng thuận.
Để phân biệt sự khác nhau về mặt pháp lý trong trường hợp này, cần phải phân biệt giữa “vụ án dân sự” (tranh chấp dân sự) với “việc dân sự”, bởi Luật tố tụng dân sự quy định trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết, quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong hai vụ việc này khác nhau. Nếu một “vụ án dân sự” Luật quy định thời hạn giải quyết (chuẩn bị xét xử) từ 2 đến 6 tháng kể từ ngày thụ lý, tòa án phải mở phiên tòa xét xử và phán quyết bởi một Hội đồng xét xử, bằng một bản án… thì ngược lại, “Việc dân sự” Luật quy định thời hạn giải quyết chỉ 01 tháng kể từ ngày thụ lý, thường do một thẩm phán giải quyết, không có hội đồng xét xử, không phải mở phiên tòa, phán quyết của Tòa án được thể hiện dưới hình thức một Quyết định mà không cần ban hành bản án.
Về mặt pháp luật tố tụng, phân biệt giữa “Vụ án dân sư” và “Việc dân sự” chính là sự khác nhau cơ bản giữa hai hình thức ly hôn đơn phương và ly hôn thuận tình. Vậy, ly hôn đơn phương và ly hôn thuận tình, hình thức ly hôn nào là “vụ án dân sự”, hình thức ly hôn nào là “việc dân sự”?
Điều 361 Bộ luật Tố Tụng dân sự quy định “Việc dân sự là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân không có tranh chấp, nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động …”. Cùng với quy định trên, Điều 55 Luật Hôn nhân và Gia đình về Thuận tình ly hôn quy định: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn…”.
Theo quy định trên chúng ta có thể khẳng định ngay rằng thuận tình ly hôn là một “việc dân sự” bởi giữa các bên không có tranh chấp, vợ chồng cùng đồng thuận yêu cầu tòa án công nhận việc thuận tình ly hôn, chấm dứt quan hệ hôn nhân.
Cần lưu ý rằng, dù tên gọi là “thuận tình ly hôn” nhưng khi giải quyết thì không thể chỉ giải quyết một vấn đề ly hôn. Ví dụ, vợ chồng có con chung chưa thành niên, khi ly hôn cháu bé sẽ sống với ai, ai sẽ trực tiếp nuôi dưỡng con? Tòa án không thể chỉ giải quyết ly hôn vợ chồng mà “bỏ rơi”, không giải quyết quyền lợi của cháu bé. Tương tự, vấn đề tài sản chung, nợ chung cũng là một vấn đề liên quan trực tiếp đến quan hệ hôn nhân nên vợ chồng cũng phải thỏa thuận được với nhau mới được coi là “thuận tình”. Cụ thể, Khoản 5, Điều 397 Bộ Luật Tố tụng dân sự quy định, khi giải quyết việc thuận tình ly hôn, “Trường hợp … các đương sự không thỏa thuận được về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tòa án đình chỉ giải quyết việc dân sự về công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và thụ lý vụ án để giải quyết”.
Tóm lại, để được coi là thuận tình ly hôn, giải quyết theo trình tự “việc dân sự” thì vợ chồng phải thống nhất được với nhau về tất cả các vấn đề liên quan đến hôn nhân, bao gồm:
- Vợ chồng cùng tự nguyện, đồng thuận yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn, chấm dứt quan hệ hôn nhân;
- Vợ chồng cùng thống nhất được việc nuôi dưỡng, chăm sóc, cấp dưỡng nuôi con;
- Vợ chồng cùng thống nhất về việc giải quyết tài sản chung (chia hoặc không, chưa chia), nợ chung.
Điều kiện đối với người nhận con nuôi theo tư vấn của công ty luật chuyên hôn nhân gia đình tại huyện Phúc Thọ
Những người có đủ điều kiện sau đây được nhận nuôi con nuôi theo quy định tại khoản 1, Điều 14 Luật nuôi con nuôi 2010:
– Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
– Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên (không áp dụng đối với trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi);
– Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi (không áp dụng đối với trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú bác ruột nhận cháu làm con nuôi);
– Có tư cách đạo đức tốt.
Khoản 2, Điều 14 Luật nuôi con nuôi 2010 quy định những người sau đây không được nhận con nuôi:
– Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
– Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh;
– Đang chấp hành hình phạt tù;
– Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
Điều kiện của người được nhận làm con nuôi theo tư vấn của công ty luật chuyên hôn nhân gia đình tại huyện Phúc Thọ
Điều 8 Luật nuôi con nuôi 2010 thì người được nhận làm con nuôi bao gồm:
“Trẻ em dưới 16 tuổi
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;
b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.”
Bên cạnh đó Nhà nước cũng quy định một người chỉ được làm con nuôi của của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng.
Thủ tục nhận con nuôi theo quy định tại Điều 17, 18, 19 Luật nuôi con nuôi. Cụ thể như sau:
Thứ nhất: Thủ tục Ðăng ký nhận nuôi con nuôi:
- Ðơn xin nhận con nuôi có xác nhận của cơ quan đơn vị nơi người nhận nuôi công tác (đối với CB-CC, người lao động; lực lượng vũ trang) hoặc UBND Phường nơi cư trú ( đối với nhân dân) của người nhận nuôi.
- Cam kết về việc chăm sóc giáo dục đứa trẻ. Nếu có vợ hoặc chồng phải có chữ ký của cả vợ và chồng.
- Giấy thỏa thuận về việc đồng ý cho trẻ em làm con nuôi của cha mẹ đẻ, người giám hộ, cơ sở y tế hoặc cơ sở nuôi dưỡng (có xác nhận UBND nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở của cơ sở y tế) .
- Giấy khai sinh của người nhận nuôi con nuôi và của người được nhận làm con nuôi (trường hợp trẻ em chưa được khai sinh, thì phải đăng ký khai sinh trước khi đăng ký nhận nuôi con nuôi)
- Chứng minh nhân dân của người nhận nuôi con nuôi.
- Hộ khẩu của người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi.
- Nếu người được nhận làm con nuôi từ 9 tuổi trở lên, thì phải có sự đồng ý của người đó.
Thứ hai: Nơi nộp hồ sơ:
Đăng ký tại UBND Phường nơi cư trú của người nhận con nuôi hoặc của người được nhận làm con nuôi.
Xin con nuôi nhưng con nuôi vẫn ở với cha mẹ đẻ? Tư vấn của công ty luật chuyên hôn nhân gia đình tại huyện Phúc Thọ ra sao?
Xin chào công ty luật chuyên hôn nhân gia đình tại huyện Phúc Thọ Luật Trần và Liên danh, em có câu hỏi sau xin được giải đáp: Em là tư pháp hộ tịch ở UBND xã, đang vướng mắc về vấn đề nuôi con nuôi, xin được trợ giúp từ quý anh, chị. Có một gia đình muốn đăng ký nuôi con nuôi thực tế, các điều kiện về cha mẹ nuôi và con nuôi đều hợp lệ, đứa con vẫn còn cha mẹ đẻ nhưng chỉ có một điều là con nuôi vẫn ở với cha mẹ đẻ.
Em muốn hỏi về vấn đề nuôi dưỡng ở đây là có hợp lệ để đăng ký không? Em muốn nhờ anh chị làm rõ cho em về vấn đề nuôi dưỡng ?
Em xin chân thành cảm ơn!
Trả lời của công ty luật chuyên hôn nhân gia đình tại huyện Phúc Thọ:
Điều 21 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định:
“Điều 21. Sự đồng ý cho làm con nuôi
- Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi; nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người còn lại; nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người giám hộ; trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó.
- Người đồng ý cho làm con nuôi quy định tại khoản 1 Điều này phải được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi nhận hồ sơ tư vấn đầy đủ về mục đích nuôi con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và con sau khi người đó được nhận làm con nuôi.
- Sự đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không bị đe doạ hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác.
- Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày.”
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì người được nhận là con nuôi có quyền ở với cha mẹ đẻ trước khi được đăng ký, giao nhận làm con nuôi.
Điều 24 Luật Nuôi con nuôi quy định:
“Điều 24. Hệ quả của việc nuôi con nuôi
- Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc thay đổi họ, tên của con nuôi.
Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 09 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó.
- Dân tộc của con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi.
- Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi.”
Như vậy, sau khi giao nhận con nuôi thì cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con nữa trừ trường hợp cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác.
Trên đây là những tư vấn của chúng tôi về vấn đề của bạn. Cảm ơn bạn đã tin tưởng và lựa chọn công ty chúng tôi.
Trên đây là bài viết tư vấn về công ty luật chuyên hôn nhân gia đình tại huyện Phúc Thọ của Luật Trần và Liên danh. Nếu có thắc mắc hãy gọi cho chúng tôi theo số Hotline: 0969 078 234 để được tư vấn miễn phí.