Trong xã hội hiện nay, ngày càng xuất hiện nhiều mối quan hệ đa dạng, phức tạp được pháp luật điều chỉnh tạo ra các quan hệ pháp luật. Vậy quan hệ pháp luật là gì? chủ thể của quan hệ pháp luật là gì? Bài viết này Luật Trần và Liên Danh sẽ giải đáp cho bạn.
Quan hệ pháp luật là gì?
Quan hệ pháp luật được hiểu theo nghĩa chung nhất là các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh, trong đó các bên tham gia quan hệ pháp luật có các quyền và nghĩa vụ pháp lý được nhà nước đảm bảo.
Không phải quan hệ xã hội nào cũng là quan hệ pháp luật, chỉ những quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh thông qua các quy phạm pháp luật mới tạo thành quan hệ pháp luật. Khi đó các bên trong quan hệ pháp luật đó sẽ trở thành các bên chủ thể chịu sự tác động và chi phối bởi các quy định của pháp luật liên quan.
Chủ thể của quan hệ pháp luật là gì?
Chủ thể có thể hiểu là các bên tham gia trong quan hệ xã hội, khi quan hệ xã hội đó được pháp luật điều chỉnh trở thành quan hệ pháp luật thì các bên trong quan hệ pháp luật đó trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật.
Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật luôn được xác định và có các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định.
Năng lực chủ thể quan hệ pháp luật là gì?
Năng lực chủ thể pháp luật là khái niệm thể hiện ý chí của nhà nước, mang tính giai cấp. Ở các nhà nước khác nhau có những quy định khác nhau về năng lực chủ thể pháp luật. Năng lực chủ thể pháp luật là khả năng của chủ thể có và thực hiện được các quyền và nghĩa vụ pháp lý.
Năng lực chủ thể pháp luật bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
+ Năng lực pháp luật là khả năng có quyền hoặc có nghĩa vụ pháp lý mà nhà nước quy định cho các tổ chức, cá nhân nhất định.
+ Năng lực hành vi là khả năng được nhà nước thừa nhận cho chủ thể bằng hành vi của mình, tự thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý và chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
VD: Một cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự trong trường hợp người đó trên 18 tuổi bị mắc các bệnh tâm thần dẫn đến không thể nhận thức và điều chỉnh hành vi của mình và có quyết định của Tòa tuyên bố về việc mất năng lực hành vi dân sự.
Các loại chủ thể của quan hệ pháp luật
Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật có thể là cá nhân hoặc tổ chức:
+ Chủ thể là cá nhân: công dân, người nước ngoài, người không có quốc tịch
Người nước ngoài, người không có quốc tịch đều có thể trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật giống như công dân của một quốc gia hoặc cũng có thể bị hạn chế tùy theo quy định của mỗi quốc gia mà công dân có quốc tịch hoặc đang cư trú.
+ Chủ thể là tổ chức: các cơ quan nhà nước, các đơn vị vũ trang, tổ chức chính trị – xã hội, công ty, doanh nghiệp tư nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình,…
Tuy nhiên, để có thể tham gia vào quan hệ pháp luật, các chủ thể nói trên phải đáp ứng một số điều kiện nhất định về năng lực chủ thể pháp luật.
Chủ thể của quan hệ pháp luật luôn được xác định và có các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý này do pháp luật quy định, phụ thuộc vào ý chí nhà nước.
Đặc điểm của quan hệ pháp luật
+ Quan hệ này được phát sinh trên cơ sở quy phạm pháp luật. Trong đó, quy phạm pháp luật là sự dự liệu tình huống nảy sinh quan hệ pháp luật, xác định được chủ thể tham gia, quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý.
+ Quan hệ mang tính ý chí, đây là ý chí của Nhà nước sau đó mới là ý chí của các bên tham gia vào quan hệ đó.
+ Nhà nước đảm bảo cho việc thực hiện quan hệ pháp luật, thậm chí là bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế thi hành.
+ Khi tham gia quan hệ này, các bên bị ràng buộc bằng quyền chủ thể và nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
+ Quan hệ pháp luật còn mang tính cụ về chủ thể tham gia là cá nhân, tổ chức hay cơ quan nhà nước cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia.
Trên đây là định nghĩa về quan hệ pháp luật là gì? Yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật? sẽ được giới thiệu trong phần tiếp theo của bài viết, mời Quý độc giả theo dõi.
Đặc điểm các quan hệ pháp luật dân sự
Ngoài các đặc điểm chung của quan hệ pháp luật, quan hệ pháp luật dân sự còn mang những đặc điểm riêng. Những đặc điểm riêng này xuất phát từ bản chất của các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh và những đặc điểm của phương pháp điều chỉnh.
– Địa vị pháp lí của các chủ thể dựa trên cơ sở bình đẳng, không bị phụ thuộc vào các yếu tố xã hội khác. Mặc dù trong quan hệ pháp luật dân sự cụ thể, các bên tham gia là các chủ thể đối lập nhau trong việc phân định quyền và nghĩa vụ: một bên mang quyền, một bên gánh chịu nghĩa vụ và thông thường, ữong quan hệ dân sự, các bên đều có quyền và nghĩa vụ đối nhau. Tuy nhiên, điều đó không làm mất đi sự bình đẳng mà nó chỉ hạn chế sự bình đẳng so với trước khi tham gia vào quan hệ dân sự. Khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ pháp luật dân sự, các bên không được áp đặt ý chí của mình để buộc bên kia thực hiện nghĩa vụ mà tạo điều kiện cho họ lựa chọn cách thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ sao cho có lợi nhất cho các bên.
– Chủ thể tham gia vào các quan hệ dân sự đa dạng, bao gồm cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Tuy nhiên khi tham gia vào quan hệ dân sự, các chủ thể độc lập với nhau về tổ chức và tài sản. Xuất phát từ các quan hệ mà luật dân sự điều chỉnh là những quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân – những quan hệ phát sinh trong đời sống thường nhật của các cá nhân cũng như trong các tập thể, trong tiêu dùng cũng như hoạt động sản xuất, kinh doanh, cho nên, cá nhân và tổ chức đều là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự:
Trong giao lưu dân sự, pháp nhân tham gia vào các quan hệ dân sự, các chủ thể này độc lập với nhau về tổ chức và tài sản, được quyền tự định đoạt khi tham gia vào các quan hệ nhưng buộc phải thực hiện các nghĩa vụ khi đã tham gia vào các quan hệ đó.
– Lợi ích (trước tiên là lợi ích kinh tể) là tiền đề trong phần lớn các quan hệ dân sự. Quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá – tiền tệ và được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật đã tạo điều kiện cho các chủ thể thông qua các biện pháp pháp lí để thoả mãn các nhu cầu vật chất cũng như tinh thần. Sự đền bù tương đương là đặc trưng của quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá – tiền tệ do luật dân sự điều chỉnh. Bởi vậy, bồi thường toàn bộ thiệt hại là đặc trưng của trách nhiệm dân sự. Quan hệ dân sự chủ yếu là quan hệ tài sản, do vậy, yếu tố tài sản là cơ sở, là tiền đề phát sinh quan hệ dân sự, cho nên bảo đảm bằng tài sản là đặc trưng để buộc bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của họ và bên có quyền có thể thông qua các biện pháp bảo đảm này để thoả mãn các quyền tài sản của mình.
– Các biện pháp cưỡng chế đa dạng không chỉ do pháp luật quy định mà có thể tự các bên quy định về các biện pháp cưỡng chế cụ thể và hình thức áp dụng các biện pháp cưỡng chế đó. Nhưng đặc tính tài sản là đặc trưng cho các biện pháp cưỡng chế trong luật dân sự.
Yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật?
Các yếu tố cầu thành quan hệ pháp luật gồm có: Chủ thể của quan hệ pháp luật; Khách thể của quan hệ pháp luật và Nội dung của quan hệ pháp luật.
1/ Chủ thể quan hệ pháp luật
– Chủ thể trong quan hệ pháp luật có thể là cá nhân, tổ chức phải có năng pháp luật, năng lực hành vi phù hợp phù hợp để tham gia vào các quan hệ đó và thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp cũng như nghĩa vụ pháp lý theo quy định.
– Trong đó chủ thể là cá nhân và tổ chức khác nhau, cụ thể:
+ Chủ thể quan hệ pháp luật là cá nhân: Năng lực pháp luật của cá nhân là khả năng để cá nhân đó có quyền và nghĩa vụ dân sự. Còn năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng mà cá nhân đó bằng hành vi của mình để xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự.
+ Chủ thể quan hệ pháp luật là tổ chức: Đối với chủ thể này, năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi sẽ xuất hiện đồng thời khi tổ chức đó thành lập theo quy định của pháp luật và chấm dứt tư cách pháp lý khi bị phá sản, giải thể.
2/ Khách thể quan thể quan hệ pháp luật
– Khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích mà các chủ thể mong muốn đạt được đó là lợi ích về vật chất hoặc tinh thần, khi tham gia vào quan hệ pháp luật.
– Khách thể trong quan hệ pháp mà các bên hướng đến có thể là tài sản vật chất, lợi ích phi vật chất hay hành vi xử sự của con người.
Ví dụ:
+ Vàng, trang sức, đá quý, tiền. xe, nhà, đất,… (tài sản vật chất)
+ Khám chữa bệnh, vận chuyển hàng hóa, chăm soc sắc đẹp, tham gia bầu cử,…(hành vi xử sự)
+ Quyền nhân thân, danh dự, nhân phẩm, học hàm học vị,…(Lợi ích phi vật chất)
3/ Nội dung quan hệ pháp luật
– Nội dung của quan hệ pháp luật là tổng thể quyền và nghĩa vụ pháp của các chủ thể tham giam trong quan hệ đó. Trong đó:
+ Quyền của chủ thể tham gia: Chủ thể thực hiện quyền của mình thông qua việc thực hiện các hành vi trong khuôn khổ pháp luật, yêu cầu chủ thể khác thực hiện hoặc kiềm chế thực hiện hành vi nhất định.
+ Nghĩa vụ của chủ thể tham gia: Chủ thể tham gia phải sử xự theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Trên đây là bài viết của Luật Trần và Liên Danh về chủ thể của quan hệ pháp luật là gì? Bài viết chỉ mang tính tham khảo, tùy tình huống thực tế có các căn cứ pháp lý khác, nên sẽ có sự sai biệt với nội dung giới thiệu trên. Mời bạn đọc tham khảo thêm các bài viết liên quan tại mục Là gì mảng Hỏi đáp pháp luật.