Bảo vệ người tiêu dùng là được coi là một trong những vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế. Việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thúc đẩy xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh của doanh nghiệp, cá nhân, tạo động lực cho nền kinh tế phát triển ổn định. Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 và các văn bản liên quan đã có những quy định cụ thể tạo hành lang pháp lý vững chắc cho công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam, trong đó có quy định về những hành vi bị nghiêm cấm trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Các hành vi bị cấm trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Theo quy định tại Điều 10 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010, các hành vi bị nghiêm cấm trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bao gồm:
– Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ lừa dối hoặc gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng thông qua hoạt động quảng cáo hoặc che giấu, cung cấp thông tin không đầy đủ, sai lệch, không chính xác về một trong các nội dung sau: Hàng hóa, dịch vụ mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp; Uy tín, khả năng kinh doanh, khả năng cung cấp hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; Nội dung, đặc điểm giao dịch giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
– Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ quấy rối người tiêu dùng thông qua tiếp thị hàng hóa, dịch vụ trái với ý muốn của người tiêu dùng từ 02 lần trở lên hoặc có hành vi khác gây cản trở, ảnh hưởng đến công việc, sinh hoạt bình thường của người tiêu dùng.
– Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ ép buộc người tiêu dùng thông qua việc thực hiện một trong các hành vi sau đây: Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các biện pháp khác gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của người tiêu dùng; Lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của người tiêu dùng hoặc lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để ép buộc giao dịch.
– Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại, đề nghị giao dịch trực tiếp với đối tượng là người không có năng lực hành vi dân sự hoặc người mất năng lực hành vi dân sự.
– Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ yêu cầu người tiêu dùng thanh toán hàng hóa, dịch vụ đã cung cấp mà không có thỏa thuận trước với người tiêu dùng.
– Người tiêu dùng, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ lợi dụng việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác.
– Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của người tiêu dùng hoặc lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để cung cấp hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm chất lượng.
– Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm chất lượng gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng.
Xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Tùy theo chủ thể và tính chất, mức độ vi phạm mà hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng sẽ bị xử lý như sau:
– Tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Mục 9 Chương II Nghị định 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là 100.000.000 đồng, tùy từng hành vi mà chủ thể vi phạm còn có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung và các biện pháp khắc phục hậu quả.
Ngoài ra, đối với cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hành vi có dấu hiệu cấu thành tội phạm quy định tại Bộ luật hình sự 2015.
– Cá nhân lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật theo các hình thức quy định tại Điều 7, Điều 15 Nghị định 112/2020/NĐ-CP ngày 18/9/2020 của Chính phủ về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Tội phạm xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng trong luật hình sự Việt nam
Sự xuất hiện tình trạng xâm hại quyền lợi người tiêu dùng có từ rất sớm trong lịch sử xã hội loài người. Tuy nhiên, quy mô, tính chất, mức độ của nó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội, phong tục tập quán và văn hóa tiêu dùng của người dân ở mỗi thời kỳ, mỗi quốc gia khác nhau. Một quy luật tất yếu là khi sản xuất, giao lưu hàng hóa càng phát triển và sôi động, số lượng người tiêu dùng và nhu cầu tiêu dùng càng lớn thì việc xâm hại quyền lợi người tiêu dùng nói chung và tội phạm xâm hại quyền lợi người tiêu dùng nói riêng ngày càng gia tăng. Đồng thời, đòi hỏi của xã hội đối với sự điều chỉnh của pháp luật trong lĩnh vực này ngày càng cao.
Tội phạm xâm hại quyền lợi người tiêu dùng đã xuất hiện trong pháp luật hình sự nước ta từ rất sớm, trong Bộ luật Hồng Đức. Bộ luật Hồng Đức đã có những quy định nhằm bảo vệ người tiêu dùng như “Trong các chợ tại kinh thành và thôn quê, những người mua, bán không theo đúng cân, thước, thăng, dấu của Nhà nước mà tự làm riêng của mình để mua bán thì xử tội biếm một tư” hoặc “Những người làm đồ khí, vật dụng giả dối, vải lụa ngắn hẹp để đem bán thì bị tội xung, biếm một tư hàng hóa để xung công”4.
Trước năm 1986, việc sản xuất, kinh doanh hàng hóa và nhu cầu tiêu dùng của người tiêu dùng được Nhà nước kiểm soát bằng các chỉ tiêu pháp lệnh. Việc phân phối hàng hóa từ các cơ sở sản xuất của Nhà nước đến tay người tiêu dùng do hệ thống mậu dịch quốc doanh đảm nhiệm. Thời kỳ này, quan hệ tiêu dùng chỉ là quan hệ giữa Nhà nước và người tiêu dùng chứ không phải quan hệ giữa thương nhân và người tiêu dùng. Chính vì vậy, trong giai đoạn này, Nhà nước đã kiểm soát một cách chủ động hệ thống sản xuất, phân phối hàng hóa và tình trạng xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng. Vì vậy, vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng như vấn đề tội phạm xâm hại quyền lợi người tiêu dùng chưa đặt ra gay gắt.
Kể từ khi các yếu tố của thị trường hiện diện trong nền kinh tế – xã hội nước ta, nhất là khi chúng ta mở cửa hội nhập với sự phát triển nhanh chóng của sản xuất, kinh doanh, thì tình trạng xâm hại quyền lợi người tiêu dùng và tội phạm trong lĩnh vực này không ngừng gia tăng. Theo Thống kê của Tổng Cục cảnh sát nhân dân thì trong khoảng thời gian từ năm 2002 đến 2007, cơ quan chức năng đã phát hiện 1.092 vụ với 1.486 đối tượng sản xuất buôn bán hàng giả, trong đó đã xử lý hình sự được 162 vụ, 109 đối tượng. Trong 3 năm 2005 – 2008, lực lượng quản lý thị trường trong cả nước đã phát hiện 9.567 vụ vi phạm liên quan đến kinh doanh xăng dầu, 28,8% trong tổng số 4.300 điểm bán lẻ xăng dầu có biểu hiện vi phạm về cân đo, chất lượng xăng dầu5. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường, trong giai đoạn mở cửa hội nhập, Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 đã sửa đổi kịp thời theo hướng hình sự hóa, tội phạm hóa một số hành vi nguy hiểm xâm hại quyền lợi người tiêu dùng, đồng thời chuẩn hóa một số tội danh đã có trong BLHS năm 1985.
Trong BLHS hiện hành có 8 tội thuộc nhóm tội phạm xâm hại quyền lợi người tiêu dùng nằm ở 2 Chương: Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (Chương XVI) và Các tội xâm hại an toàn công cộng, trật tự công cộng (Chương XIX), bao gồm: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng vật, vật nuôi (Điều 158); Tội đầu cơ (Điều 160); Tội lừa dối khách hàng (Điều 162); Tội vi phạm các quy định về cung ứng điện (Điều 177); Tội vi phạm các quy định về khám bệnh, chữa bệnh, sản xuất, pha chế thuốc, cấp phát thuốc, bán thuốc hoặc dịch vụ y tế khác (Điều 242); Tội vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm (Điều 244).
Đặc điểm chung của các tội phạm nói trên là đều xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước; trật tự công cộng; lợi ích của người tiêu dùng. Đối tượng của các tội phạm này đều là hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng. Phần lớn các hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng bị coi là tội phạm khi nó gây hậu quả ở mức độ nghiêm trọng (số lượng lớn) hoặc có nhân thân xấu (đã bị xử lý hành chính) trừ tội quy định tại Điều 157.
So với BLHS năm 1985, vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được nhận thức và phản ánh một cách đúng đắn và cụ thể hơn trong BLHS năm 1999. Trước hết là việc tách Tội làm hàng giả, buôn bán hàng giả quy định tại Điều 167 thành hai tội mới: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh và Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi. Việc tách tội danh này về mặt lý luận là tách dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng của một tội thành các tội độc lập nặng hơn6. Sự điều chỉnh này có ý nghĩa cho việc phân hóa tội phạm và cá thể hóa trách nhiệm hình sự, theo đó, hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn nhiều so với các loại hàng giả khác.