Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh quy định tại Điều 400 BLHS năm 2015

Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh quy định tại Điều 400 BLHS năm 2015

Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh là một  trong các tội danh thuộc các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu được ghi nhận tại Chương XXV của Bộ luật hình sự 2015. Cụ thể, tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh được quy định tại Điều 400 Bộ luật hình sự 2015. Vậy Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh quy định tại Điều 400 BLHS năm 2015 được hiểu như thế nào?

Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 400 Bộ luật hình sự năm 2015

Điều 400 BLHS năm 2015 quy định tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh như sau:

“Điều 400. Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh

1. Người nào khi bị địch bắt làm tù binh mà khai báo bí mật công tác quân sự hoặc tự nguyện làm việc cho địch, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;

b) Đối xử tàn ác với tù binh khác;

c) Lôi kéo người khác khai báo, làm việc cho địch;

d) Gây hậu quả nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Giao nộp cho địch vật, tài liệu bí mật nhà nước hoặc khai báo bí mật nhà nước;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.”

Dấu hiệu pháp lý tại Điều 400 BLHS năm 2015

Khách thể của tội phạm – Điều 400 Bộ luật hình sự

Trung thành với Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng vừa là vinh dự, truyền thống tốt đẹp, vừa là trách nhiệm của mỗi quân nhân.

Điều này còn được ghi nhận tại Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam như sau:

“Điều 65.

Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.”

Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh trực tiếp xâm phạm kỷ luật chiến đấu, trách nhiệm trung thành với Tổ quốc, bảo vệ bí mật quân sự của quân nhân, truyền thống và bản chất của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Như vậy, khách thể của tội phạm là kỷ luật chiến đấu, trách nhiệm trung thành với Tổ quốc, bảo vệ bí mật quân sự của quân nhân, truyền thống và bản chất của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh quy định tại Điều 400 BLHS năm 2015
Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh quy định tại Điều 400 BLHS năm 2015

Mặt khách quan của tội phạm Điều 400 Bộ luật hình sự

Hành vi thuộc mặt khách quan của tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh thể hiện ở hành vi khai báo bí mật công tác quân sự hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh.

Khai báo bí mật công tác quân sự cho địch là cung cấp cho địch những tin tức thuộc về bí mật quân sự mà người phạm tội biết được khi chưa bị bắt bằng các hình thức: nói, viết, vẽ sơ đồ hoặc các hình thức khác làm cho địch nắm được các thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực an ninh, quốc phòng của Quân đội và Nhà nước ta. Hành vi khai báo bí mật quân sự cấu thành tội phạm không phụ thuộc vào việc khai báo đó là tự nguyện hay do bị địch tra tấn.

Tự nguyện làm việc cho địch là hành vi tự giác làm những việc có tính chất quân sự hoặc phục vụ cho công việc quân sự có hại cho Tổ quốc (như: tự nguyện làm việc trong nhà máy chế tạo vũ khí, tra tấn đồng đội cùng là tù binh, làm phiên dịch,…).

Hậu quả xảy ra không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm người đó khai báo bí mật quân sự cho địch hoặc tự nguyện làm việc cho địch.

Chủ thể của tội phạm Điều 400 Bộ luật hình sự

Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người được quy định tại Điều 392 Bộ luật Hình sự mới có thể thực hiện tội phạm.

Họ chỉ có thể là:

“Điều 392. Những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân

Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng.

Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện.

Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu.

Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.”

Ngoài ra, người phạm tội phải đáp ứng đủ điều kiện về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXV Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

Mặt chủ quan của tội phạm Điều 400 Bộ luật hình sự

Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Động cơ phạm tội thường là do hèn nhát, tham sống sợ chết, cầu an…và mục đích không phải nhằm chống chính quyền nhân dân.

Hình phạt tại Điều 400 BLHS năm 2015

Điều 400 Bộ luật Hình sự quy định 03 Khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 400 Bộ Luật hình sự: Người nào khi bị địch bắt làm tù binh mà khai báo bí mật công tác quân sự hoặc tự nguyện làm việc cho địch, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 07 năm.

Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 400 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

  • Là chỉ huy hoặc sĩ quan;
  • Đối xử tàn ác với tù binh khác;
  • Lôi kéo người khác khai báo, làm việc cho địch;
  • Gây hậu quả nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng.

Mức hình phạt tại khoản 3 Điều 400 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

  • Giao nộp cho địch vật, tài liệu bí mật nhà nước hoặc khai báo bí mật nhà nước;
  • Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 400 BLHS năm 2015

Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:

Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;      

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 400 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139