Tội báo cáo sai là gì? Mức phạt thế nào?

Tội báo cáo sai là gì Mức phạt thế nào

Chương XXV Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự). Vậy Tội báo cáo sai là gì? Mức phạt thế nào? 

Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 408 Bộ luật hình sự 2015

“Điều 408. Tội báo cáo sai

1. Người nào cố ý báo cáo sai trong hoạt động quân sự gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Trong chiến đấu;

b) Trong khu vực có chiến sự;

c) Trong tình trạng khẩn cấp;

d) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.”

Dấu hiệu pháp lý của tội báo cáo sai Điều 408 Bộ luật hình sự 2015

Khách thể của tội phạm – Điều 408 Bộ luật hình sự

Điều 27 Luật Sỹ quan quân đội nhân dân Việt Nam quy định trách nhiệm của người sỹ quan như sau:

“Điều 27. Trách nhiệm của sĩ quan

Sĩ quan có trách nhiệm sau đây:

Khi nhận mệnh lệnh của người chỉ huy, nếu sĩ quan có căn cứ cho là mệnh lệnh đó trái pháp luật thì phải báo cáo ngay với người ra mệnh lệnh; trong trường hợp vẫn phải chấp hành mệnh lệnh thì báo cáo kịp thời lên cấp trên trực tiếp của người ra mệnh lệnh và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành mệnh lệnh đó.”

Báo cáo là một trong các chế độ công tác, hoạt động trong Quân đội, là trách nhiệm của cấp dưới đối với cấp trên nhằm làm cho cấp trên nắm được tình hình để lãnh đạo, chỉ huy kịp thời, chính xác. Báo cáo phải trung thực, chính xác, đầy đủ, kịp thời, ngắn gọn, rõ ràng. Báo cáo sai có thể gây thiệt hại về người, tài sản hoặc phải thay đổi kế hoạch.

Tội báo cáo sai xâm phạm chế độ báo cáo trong Quân đội, khả năng hoàn thành nhiệm vụ, sức mạnh và trình độ sẵn sàng chiến đấu của Quân đội.

Như vậy, khách thể của tội phạm là khả năng hoàn thành nhiệm vụ, sức mạnh và trình độ sẵn sàng chiến đấu của Quân đội.

Mặt khách quan của tội phạm Điều 408 Bộ luật hình sự

Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi cố ý báo cáo sai trong hoạt động quân sự gây hậu quả nghiêm trọng.

Báo cáo sai thể hiện ở hành vi báo cáo cho cấp có thẩm quyền không đúng sự thật các thông tin, số liệu gây hậu quả nghiêm trọng.

Việc báo cáo có thể thực hiện dưới nhiều hình thức: trực tiếp bằng lời nói, bằng văn bản, điện thoại, điện báo, fax, v.v…

Hành vi báo cáo sai chỉ cấu thành tội phạm khi gây ra hậu quả nghiêm trọng. Giữa hậu quả xảy ra và hành vi báo cáo sai phải có mối quan hệ nhân quả. Hành vi báo cáo sai phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả là những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản, lãng phí về thời gian, công sức của bộ đội v.v.

Tội bảo cáo sai là loại tội phạm có cấu thành vật chất, do đó hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm.

Chủ thể của tội phạm Điều 408 Bộ luật hình sự

Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người được quy định tại Điều 392 Bộ luật Hình sự mới có thể thực hiện tội phạm.

Họ chỉ có thể là:

“Điều 392. Những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân

Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng.

Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện.

Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu.

Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.”

Ngoài ra, người phạm tội phải đáp ứng đủ điều kiện về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXV Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội báo cáo sai là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

Mặt khách quan của tội phạm Điều 408 Bộ luật hình sự

Chủ thể được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội hoàn toàn nhận thức được hậu quả nghiêm trọng của hành vi báo cáo sai nhưng mong muốn hậu quả đó xảy ra.

Người phạm tội thực hiện hành vi báo cáo sai với động cơ vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác tuy nhiên không nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân.

Tội báo cáo sai là gì Mức phạt thế nào
Tội báo cáo sai là gì Mức phạt thế nào

Hình phạt đối với người phạm tội báo cáo sai

Điều 408 Bộ luật hình sự quy định 02 Khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 408 Bộ Luật hình sự: Người nào cố ý báo cáo sai trong hoạt động quân sự gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 408 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

  • Trong chiến đấu;
  • Trong khu vực có chiến sự;
  • Trong tình trạng khẩn cấp;
  • Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 408 BLHS năm 2015

Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:

Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;      

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 408 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139