Thi hành án hình sự

thi hành án hình sự

Thi hành án hình sự là một giai đoạn trong tố tụng hình sự và có thể coi đó là giai đoạn cuối cùng của một vụ án hình sự. Công tác điều tra, truy tố và xét xử là rất quan trọng. Quyết định hình phạt của Toà án chính là sự đánh giá, sự lên án của Nhà nước đối với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Sau đây, Luật Trần và Liên Danh xin phép được tổng hợp và tóm tắt một số vấn đề về thi hành án hình sự như sau:

Thẩm quyền của Toà án trong thi hành án hình sự

Theo quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự (sau đây xin viết tắt là BLHS và BLTTHS) thì Toà án có thẩm quyền thực hiện các việc về thi hành án hình sự, đó là:

– Ra quyết định thi hành án hình sự hoặc quyết định uỷ thác thi hành án hình sự.

– Ra quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù;

– Quyết định giảm thời gian chấp hành hình phạt tù hoặc miễn chấp hành hình phạt tù;

– Quyết định việc giảm thời gian thử thách của án treo;

– Quyết định xoá án tích hoặc cấp giấy chứng nhận xoá án tích;

– Theo dõi việc đưa người bị phạt tù giam vào trại giam để thi hành án hoặc theo dõi việc thi hành án của những người bị kết án mà Toà án đã giao cho chính quyền địa phương nơi người bị kết án cư trú hoặc cơ quan tổ chức nơi người bị kết án làm việc.

– Xem xét việc miễn, giảm thi hành án đói với khoản tiền phạt, án phí;

– Tổ chức việc thi hành hình phạt tử hình;

– Tham gia giúp Hội đồng đặc xá trung ương thực hiện việc đặc xá.

Như vậy, từ khi bản án, quyết định hoặc những phần của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành án cho đến khi bản án, quyết định đó được thi hành xong đều là công việc của Toà án, tức là căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự, Toà án phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc và chính xác nhằm đảm bảo các bản án, quyết định phải đưa ra thi hành được thực hiện nghiêm chỉnh.

Thời hiệu thi hành bản án

– Thời hiệu thi hành bản án hình sự là thời hạn do Bộ luật hình sự quy định mà khi hết thời hạn đó, người bị kết án không phải chấp hành bản án đã tuyên.

– Thời hiệu thi hành bản án hình sự được quy định như sau:

a. Năm năm đối với các trường hợp xử phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc xử phạt tù từ ba năm trở xuống;

b. Mười năm đối với các trường hợp xử phạt tù từ trên ba năm đến mười lăm năm;

c. Mười lăm năm đối với các trường hợp xử phạt tù trên mười lăm năm đến ba mươi năm.

Một số vấn đề về công tác thi hành án hình sự thuộc thẩm quyền của Toà án

1. Ra quyết định thi hành án hình sự

– Về Điều 255 Bộ luật tố tụng hình sự: Những bản án, quyết định được thi hành gồm:

+ Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị tức là kể từ ngày tiếp theo sau thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; (Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị đã được hướng dẫn tại tiểu mục 4.1, mục 4, phần I Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 8/12/2005).

+ Những bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;

+ Những quyết định của Toà án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Toà án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là tù giam hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án, quyết định của Toà án được thi hành ngay mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị.

2. Ra quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù

2.1. Về Điều 261 của BLTTHS: “Hoãn chấp hành hình phạt tù”

Hoãn chấp hành hình phạt tù là việc Toà án đã ra quyết định thi hành án đối với người bị xử phạt tù đang được tại ngoại, nhưng xét thấy có những căn cứ quy định tại Điều 61 BLHS hoặc xét thấy có căn cứ khác để chưa buộc họ phải chấp hành hình phạt ngay.

a. Thẩm quyền và thủ tục hoãn chấp hành hình phạt tù

+ Thẩm quyền ban hành quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù thuộc Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án phạt tù.

Ví dụ: Chánh án TAND quận A đã ra quyết định thi hành án phạt tù có quyền ra quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù.

b. Thủ tục để hoãn chấp hành hình phạt tù: Viện kiểm sát và cơ quan Công an cùng cấp có văn bản đề nghị hoặc người bị kết án có đơn xin hoãn chấp hành hình phạt tù. Trường hợp không có đề nghị hoặc có đơn xin hoãn chấp hành hình phạt tù, Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án phạt tù có thể tự mình xét và ra quyết định cho người bị kết án được hoãn chấp hành hình phạt tù nếu người thân thích của người bị kết án (cha, mẹ, vợ, chồng, anh chị em…) hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người bị kết án thường trú có đề nghị bằng văn bản.

c. Các căn cứ và thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù:

– Có đầy đủ hồ sơ đề nghị hoặc xin hoãn chấp hành hình phạt tù.

– Có một trong các điều kiện hoãn chấp hành hình phạt tù quy định tại khoản 1 Điều 61 BLHS và thoả mãn các điều kiện theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TANDTC tại mục 7 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007 cụ thể là:

– Bị bệnh nặng được hoãn cho đến khi sức khoẻ được khôi phục.

Người bị kết án bị bệnh nặng tức là bị bệnh đến mức không thể đi chấp hành hình phạt tù được và nếu họ phải chấp hành hình phạt tù thì có thể nguy hiểm đến tính mạng. Các bệnh được coi là nặng như: ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ trướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3 trở lên, suy thận độ 4 trở lên, HIV chuyển giai đoạn AIDS (bệnh viện cấp tỉnh xác nhận).

– Là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì được hoãn đến khi con đủ 36 tháng tuổi. Không phân biệt người con đó là con đẻ hay con nuôi và nếu họ bị xử phạt tù lần đầu.

– Là người không bị kết án về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng và họ là người lao động có thu nhập duy nhất trong gia đình. Thời hạn hoãn là một năm.

– Là người bị kết án về tội ít nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt với tội ấy là 3 năm tù) và do nhu cầu công vụ thì được hoãn đến một năm.

Chú ý: Trường hợp phụ nữ có thai hoặc nuôi con nhỏ hơn dưới 36 tháng tuổi đang được hoãn chấp hành hình phạt tù mà lại có thai hoặc phải tiếp tục nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì Toà án vẫn cho hoãn tiếp đến khi con đủ 36 tháng tuổi. Điều này có nghĩa là có thể cho hoãn nhiều lần.

– Người lao động duy nhất trong gia đình hoặc do nhu cầu công vụ có thể được hoãn một lần hoặc nhiều lần nhưng tổng thời gian hoãn không quá một năm. Do đó, nếu đã hoãn một lần hoặc nhiều lần mà thời gian hoãn đã được một năm thì người bị kết án không được xét hoãn nữa nếu họ xin hoãn hoặc đề nghị hoãn của cơ quan, chính quyền vẫn vì lý do công vụ hoặc vì lý do là người lao động duy nhất trong gia đình.

– Ngoài các trường hợp được hoãn chấp hành hình phạt tù quy định tại khoản 1 Điều 61 BLHS và hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TANDTC tại tiểu mục 7.1 mục 7 Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007 thì Toà án cũng có thể cho người bị kết án phạt tù được hoãn chấp hành hình phạt tù nhưng phải xem xét thận trọng, chặt chẽ. (xem ví dụ tại tiểu mục 7.2 mục 7 Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán số 01/2007 ngày 2/10/2007).

d. Thời hạn ra quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù

Sau khi nhận được hồ sơ đề nghị hoặc xin hoãn chấp hành hình phạt tù, Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án phải nghiên cứu hồ sơ, nếu thấy có tài lieụe nào chưa đủ hoặc cần làm rõ hơn thì yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù bổ sung, làm rõ thêm (kể cả cơ quan Công an hoặc Viện kiểm sát đề nghị). Trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu bổ sung, làm rõ, Chánh án Toà án phải quyết định cho hoãn hoặc không cho hoãn chấp hành hình phạt tù.

đ. Về việc tiếp tục ra quyết định thi hành án khi sắp hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù (khoản 2 Điều 261 BLTTHS).

Chậm nhất là bảy ngày trước khi hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù, Chánh án Toà án đã cho hoãn chấp hành hình phạt tù phải ra quyết định thi hành án và phải gửi ngay quyết định thi hành án cùng bản án, quyết định phạt tù đã có hiệu lực pháp luật cho cơ quan Công an cùng cấp và người bị kết án trước khi hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù.

Nếu quá thời hạn bảy ngày kể từ ngày hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù, người bị kết án không có mặt tại cơ quan Công an để đi chấp hành hình phạt tù mà không có lý do chính đáng, thì cơ quan Công an phải áp giải người bị kết án đi chấp hành hình phạt tù.

2.2. Về Điều 262 BLTTHS “Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù”

Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là việc Toà án cho người đang chấp hành hình phạt tù tạm thời không phải chấp hành hình phạt tù khi có các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 61 và Điều 62 BLHS.

Người đang chấp hành hình phạt tù thuộc đối tượng của việc tạm đình chỉ là người bị kết án phạt tù giam, đang bị giam giữ hoặc cải tạo tại các trại giam.

a. Thẩm quyền và thủ tục tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù

– Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh nơi người đang chấp hành hình phạt tù có thể cho người bị kết án phạt tù, đang chấp hành hình phạt tù được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù nếu người đó bị bệnh nặng (điểm a, khoản 1, Điều 61 BLHS).

– Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án có thể cho người đang chấp hành hình phạt tù được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong các trường hợp quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều 61 và Điều 62 BLHS.

Thẩm quyền này thuộc Chánh án TAND cấp tỉnh hoặc cấp huyện nếu Chánh án Toà án đó đã ra quyết định thi hành án (nghĩa là Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án). Quy định này không có gì khác với quy định trước đây, vì việc tạm đình chỉ trong trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; là người lao động duy nhất trong gia đình hoặc bị kết án về tội ít nghiêm trọng nhưng do nhu cầu công vụ được đề nghị xét tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, trong thực tiễn áp dụng là phù hợp, không phát sinh các vướng mắc lớn đến mức phải sửa đổi, bổ sung.

– Việc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm phải do người đã kháng nghị hoặc do Toà án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm quyết định:

+ Người đã kháng nghị bao gồm: Chánh án hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; Chánh án TANDTC hoặc Viện trưởng VKSNDTC;

+ Toà án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm được hiểu là Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, cũng có nghĩa là Hội đồng Thẩm phán TANDTC hoặc Uỷ ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh.

b. Thủ tục để tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù

– Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án xem xét, quyết định cho người đang chấp hành hình phạt tù được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù khi có hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù do Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp hoặc Ban giám thị Trại giam, Trại tạm giam lập và gửi Toà án hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù bao gồm các tài liệu:

+ Công văn của cơ quan đề nghị (Ban giám thị Trại giam hoặc Trại tạm giam, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp);

+ Bản sao bản án hoặc bản sao trích lục bản án hình sự;

+ Kết luận của bệnh viện từ cấp huyện trở lên về việc người đang chấp hành hình phạt tù là phụ nữ có thai hoặc bản sao giấy khai sinh, giấy chứng sinh của người đó; xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đang chấp hành hình phạt tù về việc họ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi.

+ Xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đang chấp hành hình phạt tù thường trú về việc họ là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu họ tiếp tục phải chấp hành hình phạt tù, thì gia đình họ sẽ gặp khó khăn đặc biệt;

+ Công văn của cơ quan, tổ chức nơi người đang chấp hành hình phạt tù làm việc đề nghị cho người đang chấp hành hình phạt được tạm đình chỉ vì lý do công vụ, nhu cầu công vụ.

c. Các căn cứ tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù

– Hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù phải đầy đủ các tài liệu đối với từng trường hợp cụ thể.

– Có một trong những căn cứ quy định tại Điều 61 Bộ luật hình sự (đó cũng chính là những căn cứ để xét hoãn chấp hành hình phạt tù) và thoả mãn các điều kiện theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TANDTC tại mục 7 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 (xem phần Hoãn chấp hành hình phạt tù).

d. Thời hạn ra Quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù

Sau khi nhận được hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án phải xem xét các căn cứ, điều kiện tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù quy định tại Điều 61 và 62 Bộ luật hình sự và điểm b Điều 262 Bộ luật tố tụng hình sự, hướng dẫn tại mục 8 Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt” để quyết định cho hoặc không cho người đang chấp hành hình phạt tù được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.

Trường hợp tài liệu trong hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ không đầy đủ, không rõ ràng thì Chánh án yêu cầu cơ quan đề nghị (lập hồ sơ) bổ sung, làm rõ thêm. Yêu cầu này của Chánh án phải bằng văn bản. Thời hạn 5 ngày để xem xét chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị cho người đang chấp hành hình phạt tù được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù được tính lại kể từ khi Chánh án Toà án nhận được tài liệu bổ sung hoặc ý kiến bằng văn bản trả lời của cơ quan đề nghị tạm đình chỉ (Ban Giám thị Trại giam, Trại tạm giam hoặc Viện kiểm sát cùng cấp) về vấn đề Toà án yêu cầu cần phải bổ sung hoặc làm rõ thêm.

– Quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm do người đã kháng nghị hoặc do Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm quyết định được gửi cho người được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; Trại giam hoặc Trại tạm giam nơi người đang chấp hành hình phạt tù; Toà án đã ra quyết định thi hành án phạt tù. (điểm 2.3 mục 2 Nghị quyết HĐTP số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007).

đ. Thời hạn tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù

Điều 62 Bộ luật hình sự quy định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù

1. Người đang chấp hành hình phạt tù mà thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 61 của Bộ luật này, thì có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.

2. Thời gian tạm đình chỉ không được tính vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

3. Quyết định giảm thời gian chấp hành hình phạt tù hoặc miễn chấp hành hình phạt.

a. Giảm thời hạn chấp hành hình phạt là việc Toà án nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào những quy định tại Điều 58 BLHS, Điều 268 Bộ luật tố tụng hình sự và hướng dẫn của TANDTC tại Mục IV Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán số 02/2007 ngày 2/10/2007 để quyết định giảm mức hình phạt đã tuyên đối với người bị kết án.

Theo quy định tại Điều 58 BLHS, Toà án chỉ có thẩm quyền xét giảm mức hình phạt đã tuyên đối với các loại hình phạt: Cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân, phạt tiền. Việc xem xét để ân giảm hình phạt tử hình thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước.

a.1. Giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù

Hình phạt tù được hiểu là hình phạt tù có thời hạn và tù chung thân. Hồ sơ đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù bao gồm:

– Bản sao bản án hoặc bản sao trích lục bản án hình sự;

– Văn bản đề nghị của cơ quan thi hành án phạt tù;

– Đơn xin giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù của người bị kết án;

– Bản tường trình của người phải thi hành án về việc đã lập công hoặc đã lập công lớn có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền (nếu người phải thi hành án đã lập công hoặc lập công lớn); kết luận của bệnh viện cấp tỉnh trở lên về tình trạng bệnh tật của người bị kết án (nếu người phải thi hành án mắc bệnh hiểm nghèo).

– Điều kiện để được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù:

+ Có nhiều tiến bộ, cải tạo tốt. Thông thường các Trại giam (Trại tạm giam) đều đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể, xếp loại cải tạo A, B, C… và bình xét, phân loại người đang chấp hành hình phạt tù theo tháng, quý, năm. Đây là một trong những căn cứ quan trọng để Ban giám thị Trại giam đánh giá mức độ tiến bộ trong cải tạo.

+ Thời gian đã chấp hành hành phạt nhất định được quy định cụ thể để xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn tù từ ba mươi năm trở xuống, mười hai năm đối với hình phạt tù chung thân.

– Hồ sơ đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt được gửi đến Toà án có thẩm quyền quy định tại Điều 269 BLTTHS “Toà án có thẩm quyền quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù là Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án Quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án đang chấp hành hình phạt”.

Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Toà án Quân sự cấp quân khu phải phân công một Thẩm phán phụ trách việc nghiên cứu hồ sơ. Trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý hồ sơ, Thẩm phán phải ấn định ngày mở phiên họp xét giảm và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp biết để cử kiểm sát viên tham gia phiên họp. Thời hạn mở phiên họp không vượt quá mười ngày kể từ ngày Thẩm phán ấn định ngày mở phiên họp. Trường hợp có tài liệu nào không đủ thì Thẩm phán yêu cầu cơ quan, tổ chức đề nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù bổ sung hoặc làm rõ thêm. Trong trường hợp này thì thời hạn mở phiên họp được tính lại là mười ngày kể từ ngày Thẩm phán nhận được văn bản, tài liệu về việc yêu cầu bổ sung, làm rõ.

– Mức giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù:

+ Người bị kết án phạt tù từ ba mươi năm trở xuống thì mỗi lần có thể được giảm từ ba tháng đến ba năm. Trường hợp được giảm ba năm phải là người bị kết án phạt tù có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, cải tạo và chấp hành nghiêm chỉnh nội quy của Trại giam (Trại tạm giam).

+ Người bị kết án có thể được giảm nhiều lần, nhưng phải đảm bảo thời hạn thực tế chấp hành hình phạt tù là một phần hai mức hình phạt đã tuyên hoặc hai mươi năm đối với hình phạt tù chung thân.

+ Mỗi người bị kết án chỉ được xét giảm thời hạn tù một lần trong một năm. Trường hợp trong năm đó sau khi được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù mà có lý do đặc biệt đáng được khoan hồng như lại lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì có thể được xét giảm thêm tối đa là hai lần trong một năm.

– Giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù trong trường hợp đặc biệt

+ Người bị kết án đã lập công, đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù vào thời gian sớm hơn thời gian nêu ở phần trên (khoản 1 Điều 58 BLHS) hoặc được xét mức giảm thời hạn phạt tù cao hơn so với mức giảm đối với các trường hơp “không đặc biệt” nêu trên.

+ Người quá già yếu là người từ 70 tuổi trở lên, hoặc người từ 60 tuổi trở lên nhưng thường xuyên đau ốm.

+ Mắc bệnh hiểm nghèo hoặc đã lập công (được nêu tại điểm 4 của bài viết này hoặc xin xem điểm a, tiểu mục 2.1 mục 2 và tiểu mục 2.2 mục 2 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt”.

5. Quyết định miễn chấp hành hình phạt

Miễn chấp hành hình phạt là việc Toà án có thẩm quyền ra quyết định không buộc người đã bị kết án phải chấp hành hình phạt mà Toà án đã tuyên phạt.

– Điều kiện để người đã bị kết án được xem xét miễn chấp hành hình phạt quy định tại Điều 57 Bộ luật hình sự và Điều 268 Bộ luật tố tụng hình sự. Cụ thể là:

+ Đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, chưa chấp hành hình phạt mà lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và nếu người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Toà án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt.

Lập công lớn là trường hợp người bị kết án đã có hành động giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra tội phạmp; cứu được người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc đã cứu được tài sản của nhà nước, của tập thể, của công dân trong khi có thiên tai, hoả hoạn; có những phát minh, sáng chế hoặc sáng kiến có giá trị hoặc có thành tích xuất sắc đột xuất khác được các cơ quan có thẩm quyền xác nhận.

Mắc bệnh hiểm nghèo là trường hợp theo kết luận của bệnh viện cấp tỉnh trở lên thì người bị kết án đang bị những căn bệnh nguy hiểm đến tính mạng, khó có phương thức chữa trị.

Người bị kết án không còn nguy hiểm cho xã hội là người đã thực sự hoàn lương, chăm chỉ làm ăn, tích cực tham gia các hoạt động xã hội hoặc do họ mắc bệnh hiểm nghèo, không còn hoạt động được nữa.

+ Đối với người bị kết án về tội ít nghiêm trọng (là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội và mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội đó đến ba năm tù) đã được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, nếu trong thời gian được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt đã lập công và được Viện trưởng Viện kiểm sát đề nghị bằng văn bản, thì Toà án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt hoặc phần hình phạt còn lại.

Đã lập công là trường hợp lập công lớn như nêu ở phần trên hoặc người bị kết án có thành tích xuất sắc trong cuộc sống, trong lao động, sản xuất, chiến đấu, học tập, công tác được cơ quan có thẩm quyền khen thưởng hoặc chứng nhận.

+ Đối với người bị phạt cấm cư trú, quản chế nếu đã chấp hành được một phần hai thời hạn của hình phạt và cải tạo tốt, thì theo đề nghị của chính quyền địa phương nơi người đó chấp hành hình phạt, Toà án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.

Cải tạo tốt tức là người bị kết án đã chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, không có vi phạm pháp luật, thành thực hối cải, tích cực lao động, sản xuất, học tập, công tác và được chính quyền địa phương nơi người đó chấp hành hình phạt đề nghị bằng văn bản.

+ Đối với người phải thi hành khoản tiền phạt (hình phạt tiền) được miễn thi hành án khi có đủ các điều kiện sau:

– Khi hết thời hạn năm năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án lần đầu, người phải thi hành khoản tiền phạt trong các vụ án hình sự về ma tuý (các tội phạm về ma tuý) được miễn thi hành án khi có đủ các điều kiện:

+ Không thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức, phạm tội nhiều lần, lợi dụng chức vụ quyền hạn, thu lợi bất chính lớn;

+ Số tiền phạt còn lại từ hai mươi triệu đồng trở xuống;

+ Không có tài sản, không có thu nhập hoặc điều kiện khác để thi hành (trừ trường hợp người phải thi hành án có tài sản chung chưa được phân chia hoặc vì lý do khách quan khác nên không xử lý được để thi hành án) hoặc bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể chấp hành được số tiền phạt còn lại.

– Khi chưa hết thời hạn năm năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án lần đầu, người phải thi hành khoản tiền phạt trong các vụ án hình sự về ma tuý (các tội phạm về ma tuý) được miễn thi hành án khi có đủ các điều kiện:

+ Không thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức, phạm tội nhiều lần, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, thu lợi bất chính lớn;

+ Số tiền phạt còn lại từ hai mươi triệu đồng trở xuống;

+ Đã chấp hành được một phần hình phạt tiền, trừ trường hợp người chưa thành niên khi phạm tội;

+ Bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể chấp hành hình phạt tiền còn lại hoặc đã lập công lớn.

– Khi hết thời hạn mười năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án lần đầu, người phải thi hành khoản tiền phạt trong các vụ án hình sự về các hoạt động tội phạm không phải là tội phạm về ma tuý (các tội phạm về ma tuý) là người phạm tội có tổ chức, phạm tội nhiều lần, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, thu lợi bất chính lớn được miễn thi hành án khi có đủ các điều kiện:

+ Số tiền phạt còn lại từ hai mươi triệu đồng trở xuống;

+ Không có tài sản, thu nhập hoặc điều kiện khác để thi hành án (trừ trường hợp người phải thi hành án có tài sản chung chưa được phân chia hoặc vì lý do khách quan khác nên không xử lý được để thi hành án) hoặc đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt, nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể chấp hành được số tiền phạt còn lại.

– Khi chưa hết thời hạn mười năm kể từ ngày ra quyết định thi hành án lần đầu, người phải thi hành án khoản tiền phạt trong các vụ án hình sự về các loại tội phạm không phải là tội phạm về ma tuý (các tội phạm về ma tuý) hoặc người phải thi hành án khoản tiền phạt trong các vụ án hình sự về ma tuý (các tội phạm về ma tuý) là người phạm tội có tổ chức, phạm tội nhiều lần, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, thu lợi bất chính lớn được miễn thi hành án khi có đủ các điều kiện:

+ Số tiền phạt còn lại từ hai mươi triệu đồng trở xuống;

+ Đã chấp hành được một phần hình phạt tiền, trừ trường hợp người chưa thành niên khi phạm tội;

+ Bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc do ốm đau gây ra mà không thể chấp hành được số tiền phạt còn lại hoặc lập công lớn.

– Người phải thi hành khoản tiền án phí nếu không có tài sản, thu nhập hoặc điều kiện khác để thi hành án (trừ trường hợp người phải thi hành án có tài sản chung chưa được phân chia hoặc vì lý do khách quan khác nên không xử lý được để thi hành án) hoặc bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn, kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể chấp hành được số tiền án phí còn lại, được miễn thi hành án khi thuộc một trong các trường hợp sau:

+ Đã hết thời hạn năm năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án lần đầu đối với khoản tiền án phí không có giá ngạch;

+ Đã hết thời hạn mười năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án lần đầu đối với khoản tiền án phí có giá ngạch từ hai mươi triệu đồng trở xuống.

+ Đối với người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá.

thi hành án hình sự
thi hành án hình sự

6. Miễn, giảm chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ

Về cơ bản, các điều kiện để miễn, giảm chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ cũng tương tự như các điều kiện miễn, giảm chấp hành hình phạt tù (Các Điều 57, 58, 59, 76 Bộ luật hình sự). Tuy nhiên, đối với hình phạt cải tạo không giam giữ thì việc xét miễn, giảm có những điểm khác về điều kiện hoặc hồ sơ đề nghị…

6.1. Giảm chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ

– Điều kiện xét giảm:

+ Đã chấp hành được một phần ba thời hạn bị phạt cải tạo không giam giữ;

+ Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, thành thật hối cải, tích cực lao động;

+ Được cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục đề nghị bằng văn bản xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

– Mức xét giảm:

Người bị kết án cải tạo không giam giữ thì mỗi lần có thể được giảm từ ba tháng đến chín tháng.

Các trường hợp đặc biệt như lập công, mắc bệnh hiểm nghèo, quá già yếu, người chưa thành niên, được xét giảm sớm hơn hoặc cao hơn cũng thực hiện tương tự như việc xét giảm hình phạt tù.

– Hồ sơ đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ bao gồm các tài liệu sau đây:

+ Bản sao bản án hoặc trích lục bản án hình sự;

+ Văn bản đề nghi của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục người bị kết án;

+ Đơn xin giảm thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ của người bị kết án;

+ Bản tường trình của người bị kết án về việc đã lập công hoặc lập công lớn có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền (cũng có thể họ xuất trình các quyết định khen thưởng vì đã lập công hoặc lập công lớn); Kết luận của bệnh viện từ cấp tỉnh trở lên về tình trạng bệnh tật của người bị kết án (nếu họ bị mắc bệnh hiểm nghèo).

– Thẩm quyền quyết định miễn, giảm hình phạt cải tạo không giam giữ thuộc Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án quân sự khu vực nơi người bị kết án chấp hành hình phạt.

– Quyền hạn của Hội đồng xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ cũng giống như quyền hạn của Hội đồng xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù. (chấp nhận toàn bộ, chấp nhận một phần hoặc không chấp nhận đề nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ).

– Việc ra quyết định, gửi quyết định thực hiện như việc xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù.

6.2. Miễn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ

– Các điều kiện để được xét miễn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ cũng tương tự như điều kiện để xét giảm chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ và đều được quy định chung trong Điều 57 Bộ luật hình sự và Điều 268 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên miễn và giảm là hai chế định khác nhau nên trong quy định của pháp luật về hai chế định này cũng có những điểm khác nhau. Miễn chấp hành là không buộc phải chấp hành nữa, tức là có sự khoan hồng đặc biệt hơn so với giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Vì vậy, trình tự, thủ tục miễn chấp hành hình phạt cũng cần chặt chẽ hơn nhằm đảm bảo việc miễn chấp hành hình phạt nói chung và hình phạt cải tạo không giam giữ nói riêng đúng quy định của pháp luật.

– Theo quy định tại khoản 2 Điều 269 BLTTHS “Thủ tục giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt” thì:

“Hồ sơ đề nghị xét miễn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, miễn chấp hành toàn bộ hoặc phần hình phạt tù còn lại, miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại phải có đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp”.

Do đó; hồ sơ đề nghị miễn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ bao gồm các tài liệu sau:

+ Bản sao bản án hoặc bản sao trích lục bản án hình sự;

+ Văn bản đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát;

+ Đơn xin miễn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ của người bị kết án.

+ Bản tường trình của người bị kết án về việc đã lập công hoặc lập công lớn có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền nếu họ có tình tiết này. Cũng có thể người bị kết án xuất trình các quyết định của cơ quan có thẩm quyền về việc khen thưởng đối với người bị kết án. Trường hợp này, theo chúng tôi không cần thiết phải yêu cầu họ làm bản tường trình và cũng không cần phải có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền nữa vì các quyết định khen thưởng của cơ quan có thẩm quyền đã là xác nhận thành tích của người bị kết án rồi.

Trường hợp người bị kết án được xét miễn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ vì lý do họ mắc bệnh hiểm nghèo thì trong hồ sơ phải có kết luận của bệnh viện từ cấp tỉnh trở lên về tình trạng bệnh tật của người bị kết án.

– Các quy định về trình tự, thủ tục tiến hành, thời hạn xét miễn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ; các quy định miễn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ trong những trường hợp đặc biệt hoặc đối với người bị kết án là người chưa thành niên; việc giao quyết định, kháng nghị quyết định, phúc thẩm quyết định miễn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được thực hiện như việc xét miễn, giảm hình phạt tù. (xem Điều 269 BLTTHS)

7. Miễn, giảm thi hành án đối với khoản tiền phạt, án phí

(Theo Điều 61 Luật thi hành án dân sự là miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước).

7.1. Một số vấn đề chung

Miễn, giảm thi hành án đối với khoản tiền phạt, án phí là những trường hợp người phải thi hành các khoản tiền này theo bản án, quyết định của Toà án, nhưng có đủ các điều kiện do pháp luật quy định nên được Toà án có thẩm quyền quyết định miễn hoặc giảm khoản tiền mà họ phải thi hành.

– Tiền phạt được xem xét để miễn, giảm không phân biệt là hình phạt chính hay hình phạt bổ sung.

– Đã thi hành được một phần hình phạt tiền là trường hợp người phải thi hành án đã nộp một khoản tiền hoặc tài sản để thi hành án mà ít nhất là 1/20 khoản tiền phạt phải thi hành, nhưng không được thấp hơn mức án phí không có giá ngạch.

– Người phải thi hành án lập công lớn là trường hợp người đó đã có hành động giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra tội phạm; cứu được người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc đã cứu được tài sản của nhà nước, của tập thể, của công dân trong thiên tai, hoả hoạn; có những phát minh, sáng chế hoặc sáng kiến có giá trị được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng.

– Người phải thi hành án bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài là người bị mất toàn bộ hoặc phần lớn tài sản, mất hoặc giảm thu nhập, không đảm bảo hoặc chỉ đảm bảo được nhu cầu tối thiểu của bản thân người đó và gia đình từ mười hai tháng trở lên, kể từ khi thời điểm thiên tai, hoả hoạn, tai nạn, ốm đau đến thời điểm xét miễn giảm thi hành án, trừ trường hợp do người phải thi hành án tự gây ra tai nạn, ốm đau cho bản thân họ nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.

7.2. Nguyên tắc xét miễn, giảm thi hành án đối với khoản tiền phạt, án phí

– Việc xét miễn, giảm thi hành án khoản tiền phạt, án phí được tiến hành hàng quý trong năm, nhưng mỗi đối tượng phải thi hành án chỉ được xét miễn hoặc giảm không quá một lần trong một năm. Trường hợp một người phải thi hành nhiều khoản tiền phạt, án phí trong nhiều bản án, quyết định khác nhau, thì đối với mỗi bản án, quyết định, người phải thi hành án chỉ được xét miễn hoặc giảm thi hành án một lần trong một năm.

– Không xét miễn, giảm thi hành án đối với người có đủ điều kiện xiét miễn, giảm nhưng kể từ ngày bị xử phạt tiền, buộc phải chịu án phí đến thời điểm xét miễn, giảm mà lại phạm tội mới.

– Người được xét miễn, giảm thi hành án không phải nộp lệ phí và các chi phí liên quan đến việc xét miễn, giảm. Chi phí cho việc điều tra, xác minh, lập hồ sơ, thụ lý hồ sơ và tổ chức xét miễn, giảm thi hành án được lấy từ kinh phí nghiệp vụ của cơ quan thi hành án dân sự địa phương, Thi hành án quân khu, Trại giam, Viện kiểm sát và Toà án giải quyết vụ việc đó.

7.3. Các trường hợp được giảm thi hành án

– Khi hết thời hạn năm năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án lần đầu, người phải thi hành án khoản tiền phạt trong các vụ án hình sự về ma tuý (các tội phạm về ma tuý) được giảm thi hành án khi có đủ các điều kiện sau:

+ Không thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức, phạm tội nhiều lần, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, thu lợi bất chính lớn;

+ Số tiền phạt còn lại từ trên hai mươi triệu đồng;

+ Không có tài sản, không có thu nhập hoặc điều kiện khác để thi hành án (trừ trường hợp người phải thi hành án có tài sản chung chưa được phân chia hoặc vì lý do khách quan khác nên không xử lý được để thi hành án) hoặc bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể chấp hành được số tiền phạt còn lại.

– Khi chưa hết thời hạn năm năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án lần đầu, người phải thi hành án khoản tiền phạt trong các vụ án hình sự về ma tuý (các tội phạm về ma tuý) được giảm thi hành án khi có đủ các điều kiện sau:

+ Là người chưa thành niên khi phạm tội;

+ Không thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức, phạm tội nhiều lần, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, thu lợi bất chính lớn;

+ Số tiền phạt còn lại trên hai triệu đồng

+ Bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể chấp hành được số tiền phạt còn lại hoặc lập công lớn.

– Khi hết thời hạn mười năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án lần đầu, người phải thi hành khoản tiền phạt trong các vụ án hình sự về các loại tội phạm không phải là tội phạm về ma tuý (các tội phạm về ma tuý) hoặc người phải thi hành án phải thi hành khoản tiền phạt trong các vụ án hình sự về ma tuý (các tội phạm về ma tuý) là người phạm tội có tổ chức, phạm tội nhiều lần, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, thu lợi bất chính lớn được giảm thi hành án khi có đủ các điều kiện sau:

+ Là người chưa thành niên khi phạm tội;

+ Số tiền phạt còn lại trên hai triệu đồng;

+ Bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể chấp hành được số tiền phạt còn lại hoặc lập công lớn.

– Người phải thi hành khoản tiền án phí có giá ngạch trên hai mươi triệu đồng nếu không có tài sản, thu nhập hoặc điều kiện khác để thi hành án (trừ trường hợp người phải thi hành án có tài sản chung chưa phân chia hoặc vì lý do khách quan khác nên không xử lý được để thi hành án) hoặc bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể chấp hành được số tiền án phí còn lại được giảm thi hành án trong trường hợp đã đủ mười năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án lần đầu.

– Mức xét giảm thi hành án được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 18 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 của Chính phủ.

8. Rút ngắn thời gian thử thách của án treo

Án treo không phải là một loại hình phạt riêng quy định trong Bộ luật hình sự mà là một chế định miễn chấp hành hình phạt tù có thời hạn, có điều kiện. Do vậy, khi quyết định hình phạt, Toà án phải xác định mức hình phạt tù đó, tức là Toà án phải căn cứ vào các quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự, các hướng dẫn của TANDTC để xem xét bị cáo có đủ các điều kiện để có thể cho bị cáo được hưởng án treo hay không.

– Các điều kiện cần và đủ để cho bị cáo hưởng án treo gồm:

+ Bị xử phạt tù không quá ba năm, không phân biệt đó là tội gì;

Trường hợp người bị xét xử trong cùng một lần (trong một vụ án) về nhiều tội mà khi tổng hợp hình phạt, hình phạt tù chung không quá ba năm tù thì cũng có thể cho hưởng án treo.

+ Có nhân thân tốt, được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân; chưa có tiền án, tiền sự; có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, cụ thể;

+ Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng, trong đó có ít nhất là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ, vừa có tình tiết tăng nặng thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên;

+ Nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội hoặc không gây ảnh hưởng xấu đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm;

+ Đối với người bị xử phạt tù đã bị tạm giam, thì chỉ cho hưởng án treo khi thời gian đã bị tạm giam ngắn hơn thời hạn phạt tù.

– Theo quy định tại khoản 1 Điều 60 Bộ luật hình sự “Án treo” thì khi cho người bị phạt tù hưởng án treo, trong mọi trường hợp Toà án phải ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.

9. Thi hành một số các hình phạt khác

Ngoài các hình phạt chính, Toà án còn áp dụng các hình phạt bổ sung nếu như điều luật có quy định và xét thấy cần thiết phải áp dụng đối với bịcáo. Các hình phạt bổ sung bao gồm:

– Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định;

– Cấm cư trú;

– Tước một số quyền công dân;

– Tịch thu tài sản;

– Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính;

– Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.

10. Xoá án tích

Xoá án tích là một chế định được quy định tại Chương IX Bộ luật hình sự và Chương XXIX Bộ luật tố tụng hình sự. Theo các quy định của hai Bộ luật này thì có hai hình thức xoá án tích, đó là “Đương nhiên được xoá án tích” và “xoá án tích theo quyết định của Toà án”.

Xoá án tích là việc xoá đi vết tích phạm tội của người bị kết án, làm cho người đó được coi như chưa bị kết án, họ có quyền được ghi trong lý lịch của mình chưa có tiền án sau khi đã được Toà án cấp giấy chứng nhận hoặc ra quyết định xoá án tích.

10.1. Đương nhiên xoá án tích

Đương nhiên xoá án tích được áp dụng đối với những trường hợp quy định tại Điều 64 Bộ luật hình sự, đó là:

– Người được miễn hình phạt;

– Người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XI “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia” và Chương XXIV “Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh” của Bộ luật hình sự, nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án người đó không phạm tội mới trong thời hạn sau:

+ Một năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo;

+ Ba năm trong trường hợp hình phạt tù đến ba năm;

+ Năm năm trong trường hợp hình phạt là tù từ trên ba năm đến mười lăm năm.

+ Bảy năm trong trường hợp hình phạt là tù từ trên mười lăm năm.

10.2. Xoá án tích do Toà án quyết định

Xoá án tích do Toà án quyết định là việc trên cơ sở xem xét những điều kiện được quy định tại Điều 65 và Điều 66 Bộ luật hình sự, ý kiến bằng văn bản của Viện kiểm sát, đơn của người bị kết án, nhận xét của chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ cư trú hoặc làm việc, Toà án ra quyết định về việc xoá án tích.

– Các điều kiện để xoá án tích do Toà án quyết định:

+ Những người đã bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia (chương XI Bộ luật hình sự) và các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh (chương XXIV Bộ luật hình sự). Khi quyết định xoá án tích đối với những người bị kết án về những tội phạm này, Toà án căn cứ vào tính chất của tội phạm đã được thực hiện, nhân dân, thái độ chấp hành pháp luật và thái độ lao động của họ trong các trường hợp sau:

a. Đã bị phạt tù đến ba năm mà không phạm tội mới trong thời hạn ba năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án;

b. Đã bị phạt tù từ trên ba năm đến mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn bảy năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.

11. Thi hành hình phạt tử hình

Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Hình phạt này không được áp dụng đối với người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử.

Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang có con dưới 36 tháng tuổi. Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân. Nếu người bị kết án tử hình được ân giảm thì hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân.

Như vậy, tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất, tước đi quyền được sống của người phạm tội. Vì vậy, việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án tử hình đều phải hết sức thận trọng, không được phép sai sót. Chính vì vậy pháp luật quy định rất chặt chẽ các trình tự đặc biệt về hình phạt tử hình. Bộ luật tố tụng hình sự quy định thành một chương (chương XXVI Thi hành hình phạt tử hình). 

Bản án tử hình chỉ được thi hành khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a. Người bị kết án tử hình không làm đơn xin ân giảm hình phạt tử hình và Toà án xử sơ thẩm đã nhận được quyết định không kháng nghị của Chánh án TANDTC và quyết định không kháng nghị của Viện trưởng VKSNDTC.

b. Người bị kết án tử hình có làm đơn xin ân giảm hình phạt tử hình và Toà án xử sơ thẩm để nhận được quyết định không kháng nghị của Chánh án TANDTC, quyết định không kháng nghị của Viện trưởng VKSNDTC và bản sao quyết định của Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm hình phạt tử hình (do TANDTC gửi đến).

c. Người bị kết án tử hình không làm đơn xin ân giảm hình phạt tử hình và Toà án xử sơ thẩm đã nhận được quyết định giám đốc thẩm hoặc quyết định tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án tử hình.

d. Người bị kết án tử hình có làm đơn xin ân giảm hình phạt tử hình và Toà án xử sơ thẩm đxã nhận được quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC không chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên bản án tử hình và bản sao Quyết định của Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm hình phạt tử hình (do TANDTC gửi đến).

 

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139