Buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật, được hiểu là hành vi áp dụng biện pháp kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc đôi với người lao động, cán bộ, công chức không đúng với qui định của pháp luật. Sau đây, Luật trần và Liên Danh xin được giới thiệu các quy định về tội buộc người lao động thôi việc trái pháp luật như sau:
Quy định tội buộc người lao động thôi việc theo quy định của pháp luật hiện hành
Theo quy định tại Điều 162 – Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 về tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật như sau:
“1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà thực hiện một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Ra quyết định buộc thôi việc trái pháp luật đối với công chức, viên chức;
b) Sa thải trái pháp luật đối với người lao động;
c) Cưỡng ép, đe dọa buộc công chức, viên chức, người lao động phải thôi việc.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Đối với 02 người trở lên;
b) Đối với phụ nữ mà biết là có thai;
c) Đối với người đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi;
d) Làm người bị buộc thôi việc, người bị sa thải tự sát;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác.”
Điều luật chỉ quy định một hành vi khách quan nhưng lại đối với nhiều đối tượng khác nhau, nên khi định tội danh, cần chú ý:
Nếu người phạm tội chỉ buộc người lao động thôi việc trái pháp luật thì chỉ định tội là “buộc người lao động thôi việc trái pháp luật” mà không định tội danh đầy đủ như điều luật quy định. Tương tự như vậy, nếu chỉ buộc công chức thôi việc trái pháp luật thì chỉ định tội danh là “buộc công chức thôi việc trái pháp luật”.
Cấu thành tội phạm tội buộc người lao động thôi việc trái pháp luật
Mặt khách quan của tội phạm
Theo Điều 162 BLHS năm 2015, hành vi khách quan của tội phạm này được thể hiện ở người phạm tội thực hiện một trong các hành vi sau đây:
– Ra quyết định buộc thôi việc trái pháp luật đối với công chức, viên chức là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn trong việc tuyển dụng và cho thôi việc đối với công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý ra quyết định buộc công chức, viên chức dưới quyền mình phải thôi việc trái pháp luật.
– Sa thải trái pháp luật đối với người lao động là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn trong việc tuyển dụng và cho thôi việc đối với người lao động trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý thải người lao động mà không có lý do chính đáng, trái với hợp đồng lao động.
– Cưỡng ép, đe dọa buộc công chức, viên chức, người lao động phải thôi việc là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn trong việc tuyển dụng và cho thôi việc đối với công chức, viên chức làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý buộc công chức, viên chức, người lao động dưới quyền mình phải thôi việc bằng các thủ đoạn cưỡng ép, đe dọa tác động đến ý chí của những người này để buộc họ phải thôi việc trái với ý muốn của người đó mà không có lý do chính đáng hoặc không thông qua hội đồng xét kỷ luật của cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật hiện hành.
Các hành vi nêu trên chỉ cấu thành tội phạm khi các hành vi này gây hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng ở đây có thể là người bị thôi việc, người bị sa thải hoặc gia đình họ lâm vào hoàn cảnh kinh tế khó khăn hoặc làm người bị thôi việc, người bị sa thải rối loạn tâm thần, tổn hại sức khỏe…Tội phạm hoàn thành khi các hành vi phạm tội nêu trên đã cụ thể hóa hành vi khách quan buộc cán bộ, công chức, người lao động thôi việc thành 3 dạng hành vi cụ thể khác nhau như đã nêu ở trên.
Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Người phạm tội biết rõ hành vi buộc thôi việc người lao động, công chức, viên chức hoặc sa thải người lao động là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện.
Động cơ thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội này là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Đó là động cơ vụ lợi như vì lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần hoặc động cơ cá nhân như do thù tức.
Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt tức là những người có chức vụ, quyền hạn trong việc tuyển dụng và cho thôi việc đối với công chức, viên chức làm việc trong các nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội hoặc người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau như thủ trưởng cơ quan, giám đốc công ty…
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Người lao động là một cá nhân, có mong muốn và trực tiếp tham gia xác lập, thực hiện quan hệ pháp luật giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Khách thể của tội phạm
Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật có khách thể chung là quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, khách thể trực tiếp là xâm phạm đến quyền làm việc của công dân được quy định Tại Điều 35 Hiến pháp nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 như sau: “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc.”
Đối tượng của tội phạm này là người làm việc trong các cơ quan nhà nước, trường học, bệnh viện, tổ chức xã hội, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được tuyển dụng trong biên chế là công chức, viên chức nhà nước hoặc là người lao động theo hợp đồng.
Khung hình phạt áp dụng
Điều 162 BLHS năm 2015 quy định 2 khung hình phạt:
– Khung cơ bản, quy định hình phạt áp dụng đối với người phạm tội bao gồm: Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
– Khung tăng nặng, có mức phạt tiền từ 100 triệu đồng đến 200 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm áp dụng cho người phạm tội thuộc một trong các trường hợp phạm tội sau:
+ Đối với 02 người trở lên;
+ Đối với phụ nữ mà biết là có thai;
+ Đối với người đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi;
+ Làm người bị buộc thôi việc, người bị sa thải tự sát;
+ Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác như đình công gây đình trệ, làm tê liệt hoạt động của các cơ quan, tổ chức hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Điểm mới trong quy định tại Điều 162 là các nhà làm luật tăng nặng TNHS được thể hiện bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính ở khoản 1 (khung cơ bản) và đã bổ sung khoản 2 (khung tăng nặng) có nghĩa là bổ sung thêm cấu thành tội phạm tăng nặng với 4 tình tiết tăng nặng định khung nói trên. Thể hiện chính sách xử lý nghiêm khắc hơn đối với tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật để bảo vệ tốt hơn quyền làm việc của công dân.
Người phạm tội này còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Trong trường hợp người thủ trưởng cơ quan buộc công chức, viên chức dưới quyền mình thôi việc trái pháp luật vì thù tức người này đã tố cáo thì người thủ trưởng cơ quan không chỉ phải chịu TNHS về tội buộc công chức, viên chức thôi việc trái pháp luật (Điều 162 BLHS năm 2015), mà còn có thể phải chịu TNHS về tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 166 BLHS năm 2015).
Cách thức cán bộ, công chức, lao động bảo vệ quyền lợi khi bị cho thôi việc trái pháp luật
– Khiếu nại lần đầu trực tiếp với người ra quyết định sa thải, khiếu nại lần 2 tới Chánh Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, nơi người sử dụng lao động đặt trụ sở chính nếu không được giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc không đồng ý với việc giải quyết đó.
– Hòa giải thông qua hòa giải viên lao động.
– Khởi kiện tại Tòa án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
– Tố giác tới các cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận thông tin tố giác tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự, chủ yếu là cơ quan điều tra.
Trường hợp kỷ luật lao động bằng hình thức sa thải trái pháp luật thì người sử dụng lao động có nghĩa vụ thực hiện:
– Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
– Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài Khoản tiền bồi thường quy định tại Khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.
– Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài Khoản tiền bồi thường quy định tại Khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận Khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
– Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài Khoản tiền bồi thường quy định tại Khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
Trên đây là một số nội dung về tội buộc người lao động thôi việc trái pháp luật của Luật Trần và Liên Danh, nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ nhanh nhất.