Không tố giác tội phạm

không tố giác tội phạm

Có rất nhiều người thắc mắc rằng, trường hợp không tố giác tội phạm có bị sao không? Pháp Luật quy định như thế nào về việc không tố giác tội phạm. Vậy không tố giác tội phạm có bị đi tù không?

Hãy cùng Luật Trần và Liên Danh tìm hiểu về vấn đề này nhé!

Khái niệm không tố giác tội phạm

Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm trong những trường hợp quy định tại Điều 389 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Không thông báo cho cơ quan có trách nhiệm về tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà mình biết rõ và có điều kiện để thông báo.

Không tố giác tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm hoạt động bình thường của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Không tố giác tội phạm được quy định trong Luật hình sự Việt Nam là tội phạm với tội danh chung là không tố giác tội phạm kể từ khi Bộ luật hình sự đầu tiên (Bộ luật hình sự năm 1985) có hiểu lực.

Trong BLHS năm 1999, không tố giác tội phạm tiếp tục được quy định là tội phạm thuộc Chương “Các tội xâm phạm hoạt động quy định của Bộ luật hình sự.

Hành vi không tố giác tội phạm phụ thuộc chủ yếu vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm không bị tố giác.

Do vậy, Bộ luật hình sự đã liệt kê các tội phạm mà hành vi không tố giác những tội này có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội và bị coi là tội phạm như tội giết người, tội tội hiếp dâm trẻ em, tội cướp tài sản… Cách quy định này tuy cụ thể nhưng cũng có hạn chế là quá dài, thiếu tính khái quát.

Các dấu hiệu pháp lý của tội phạm 

Khách thể của tội phạm – Điều 390 Bộ luật hình sự

Tội phạm này xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử.

Mặt khách quan của tội phạm – Điều 390 Bộ luật hình sự

Khác với hành vi che giấu tội phạm, hành vi không tố giác tội phạm về lý luận gọi là “không hành động”, tức là người phạm tội không thực hiện bất cứ một hành vi nào.

Hành vi không tố giác tội phạm được thể hiện như: không báo cáo với cơ quan có thẩm quyền hoặc những người có thẩm quyền biết về tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà mình biết rõ.

Một người không tố giác tội phạm chỉ bị coi là hành vi phạm tội nếu họ có khả năng tố giác, không gặp bất cứ một trở ngại khách quan nào.

Nếu vì lý do khách quan mà người không tố giác không có khả năng tố giác thì hành vi không tố giác đó không bị coi là hành vi phạm tội.

Cũng như hành vi che giấu tội phạm, không phải hành vi không tố giác tội phạm nào cũng là hành vi phạm tội, mà chỉ không tố giác một số tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự mới là hành vi phạm tội.

Đặc biệt,

+ Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia (Chương XIII Bộ luật hình sự) hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

+ Người không tố giác là người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự, trừ trường hợp không tố giác các tội các tội xâm phạm an ninh quốc gia (Chương XIII Bộ luật hình sự) hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện việc bào chữa.

+ Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt.

Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 390 Bộ luật hình sự

Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội của mình là do cố ý.

Chủ thể của tội phạm – Điều 390 Bộ luật hình sự

Chủ thể của tội phạm là những người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.

Đặc điểm của hành vi không tố giác tội phạm

Hành vi không tố giác tội phạm có một số đặc điểm sau:

– Hành vi không tố giác tội phạm luôn được thực hiện dưới hình thức “không hành động phạm tội”;

– Hành vi không tố giác tội phạm có thể xảy ra ở giai đoạn tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện (đã kết thúc);

– Lỗi của người có hành vi không tố giác tội phạm là lỗi cố ý trực tiếp.

Cũng như hành vi che giấu tội phạm, hành vi không tố giác tội phạm tuy có liên quan đến tội phạm nhưng không phải là hành vi đồng phạm bởi người không tố giác không “cố ý cùng thực hiện tội phạm” với người mà người đó không tố giác. Hành vi không tố giác tội phạm không có quan hệ nhân quả với hành vi phạm tội và hậu quả của tội phạm do người khác gây ra

Hành vi không tố giác tội phạm thể hiện ở thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm và vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của công dân đối với trách nhiệm đấu tranh phòng chống tội phạm do luật quy định, góp phần gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, không ngăn chặn kịp thời các hậu quả nguy hiểm cho xã hội do phạm tội gây ra.

Do có tính nguy hiểm cho xã hội, nên người có hành vi không tố giác tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự về không tố giác tội phạm khi không tố giác người phạm một trong các tội được quy định tại Điều 389 BLHS năm 2015.

Ghi nhận mối quan hệ tình cảm đặc biệt giữa những người thân thiết trong gia đình vốn là một trong những nét đặc trưng của truyền thống văn hóa dân tộc.

Nên cũng như khoản 2 Điều 22 BLHS năm 1999, khoản 2 Điều 19 BLHS năm 2015 quy định người không tố giác tội phạm là ông, bà,cha, mẹ, con, cháu,anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại Chương XIII BLHS hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

không tố giác tội phạm
không tố giác tội phạm

Không tố giác tội phạm bị xử phạm như thế nào?

Đối với người thân trong gia đình:

Không tố giác tội phạm có bị đi tù không? Do có tính nguy hiểm cho xã hội, nên người có hành vi không tố giác tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự về không tố giác tội phạm khi không tố giác người phạm một trong các tội được quy định tại Điều 389 Bộ luật hình sự năm 2015.

Ghi nhận mối quan hệ tình cảm đặc biệt giữa những người thân thiết trong gia đình vốn là một trong những nét đặc trưng của truyền thống văn hóa dân tộc. Quy định người không tố giác tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ; hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm theo quy định; trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của Bộ luật này.

Đối với đối tượng khác:

Cũng như hành vi che giấu tội phạm; hành vi không tố giác tội phạm tuy có liên quan đến tội phạm. Nhưng không phải là hành vi đồng phạm; bởi người không tố giác không “cố ý cùng thực hiện tội phạm” với người mà người đó không tố giác. Hành vi không tố giác tội phạm không có quan hệ nhân quả với hành vi phạm tội; và hậu quả của tội phạm do người khác gây ra.

Hành vi không tố giác tội phạm thể hiện ở thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm và vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của công dân đối với trách nhiệm đấu tranh phòng chống tội phạm do luật quy định, góp phần gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, không ngăn chặn kịp thời các hậu quả nguy hiểm cho xã hội do phạm tội gây ra.

Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm những năm qua còn cho thấy trong khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa, người bào chữa biết rõ người mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện tội phạm nhưng vì lợi ích của người được bào chữa, người bào chữa đã không tố giác tội phạm này.

Buộc người bào chữa phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm do người mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện vừa không thực tế vừa buộc người bào chữa phải vi phạm nghĩa vụ của người bào chữa đối với thân chủ của mình.

Do vậy, BLHS năm 2015 bổ sung quy định người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại chương XIII BLHS hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự khi biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác trong trường hợp không tố giác tội phạm do chính người mà mình bào chữa đã thực hiện hoặc đã tham gia thực hiện mà người bào chữa biết được khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác quy định của pháp luật.

Người không tố giác tội phạm có thể:

– Bị phạt cảnh cáo,

– Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm

– Hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Phân biệt che giấu tội phạm và không tố giác tội phạm

Che giấu tội phạm và không tố giác tội phạm đều là hành vi gây ảnh hưởng đến hoạt động tư pháp của cơ quan nhà nước.

Tuy nhiên, che giấu tội phạm và không tố giác tội phạm có những điểm khác biệt sau:

Che giấu tội phạm trong nhận thức của người thực hiện hành vi là không biết trước hành vi phạm tội và cũng không có hứa hẹn gì với người thực hiện hành vi phạm tội còn không tố giác tội phạm là biết rõ hành vi phạm tội đã, đang và sẽ xảy ra nhưng vẫn không báo với cơ quan có thẩm quyền.

Thời điểm của hành vi che giấu tội phạm là sau khi tội phạm đã thực hiện xong, còn với hành vi không tố giác tội phạm là trong mọi thời điểm khi hành vi phạm tội đang diễn ra.

Hành vi của việc che giấu tội phạm thường là che giấu dấu vết, tang vật của tội phạm, cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội. Còn không tố giác tội phạm không là báo với cơ quan có thẩm quyền tội phạm đã, đang và sẽ xảy ra.

Như vậy, trong trường hợp nhất định về loại tội phạm và chủ thể thực hiện hành vi thì người không tố giác tội phạm sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự.

Việc không tố giác tội phạm gây ảnh hưởng rất lớn đối với người bị hại và trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

Hình phạt của tội không tố giác tội phạm

Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 390 Bộ Luật hình sự: Khung cơ bản được quy định tại khoản 1 Điều 390 Bộ luật hình sự, theo đó người nào biết rõ một trong các tội phạm quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 14 của Bộ luật này đang được chuẩn bị hoặc một trong các tội phạm quy định tại Điều 389 của Bộ luật này đang được thực hiện.

Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 390 Bộ Luật hình sự: Hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 19 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 390 Bộ luật hình sự 2015

Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:

Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;      

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Như vậy, trên đây là toàn bộ thông tin và nội dung tư vấn pháp luật của Luật Trần và Liên Danh liên quan đến không tố giác tội phạm. Mọi thắc mắc xin liên hệ qua Hotline: Công ty luật uy tín để được giải đáp nhanh chóng, chu đáo và miễn phí!

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139