Khoản 3 điều 173 bộ luật hình sự

khoản 3 điều 173 bộ luật hình sự

Tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm hữu trái phép tài sản của người khác để tạo cho mình khả năng định đoạt tài sản đó một cách lén lút, nhằm không cho chủ quản lý tài sản biết có việc chiếm đoạt xảy ra. Người phạm tội thực hiện hành vi cũng mong muốn che giấu hành vi chiếm đoạt. Việc che dấu này thường là che giấu cả về hình thức và tính chất bất hợp pháp của hành vi, nhưng cũng có trường hợp chỉ cần che giấu tính bất hợp pháp của hành vi, cũng được coi là hành vi chiếm đoạt có tính lén lút. Hành vi trộm cắp tài sản phải tác động đến tài sản đang có người khác quản lý. Những tài sản đã thoát ly sự quản lý của chủ sở hữu hay người quản lý hợp pháp thì không coi là đối tượng chiếm đoạt của hành vi trộm cắp. Tội trộm cắp tài sản hoàn thành khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản, tùy vào loại tài sản và vị trí để tài sản mà thời điểm chiếm đoạt được tài sản có thể được xác định khác nhau với từng trường hợp cụ thể. Sau đây, Luật Trần và Liên Danh sẽ giới thiệu tới các bạn tội phạm này và mức hình phạt tại khoản 3 điều 173 bộ luật hình sự như sau:

Quy định của pháp luật về khoản 3 điều 173 bộ luật hình sự

Theo điều 173 bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, tội trộm cắp tài sản được quy định như sau:

Điều 173. Tội trộm cắp tài sản 

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;

đ) Tài sản là di vật, cổ vật.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

đ) Hành hung để tẩu thoát;

e) Tài sản là bảo vật quốc gia;

g) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

Cấu thành tội phạm của tội trộm cắp tài sản 

  • Chủ thể của tội phạm:

Chủ thể tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi luật định. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các trường hợp trộm cắp tài sản quy định tại khoản 3 và 4 Điều 173 BLHS.

  • Mặt chủ quan của tội phạm:

Tội trộm cắp tài sản được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ đó là tài sản thuộc sở hữu của người khác chứ không phải tài sản vô chủ, nhận thức rõ việc mình chiếm đoạt tài sản đó là vi phạm pháp luật nhưng vẫn mong muốn thực hiện và mong muốn chiếm đoạt được tài sản.

  • Khách thể của tội phạm:

Tội phạm này xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản.

Đối tượng tác động của tội này là tài sản. Tuy nhiên, không phải mọi loại tài sản đều là đối tượng tác động của tội này. Chỉ có vật thực, tiền, giấy tờ có giá mới là đối tượng tác động của loại tội phạm này.

  • Mặt khách quan của tội phạm:

+ Hành vi:

Tội phạm được thể hiện ở hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác.

  • Hành vi chiếm đoạt tài sản là người phạm tội bí mật, che giấu hành vi của mình không cho chủ tài sản biết khi người phạm tội dịch chuyển tài sản từ vị trí cất giũ đến vị trí khác. Sự dịch chuyển đó làm cho chủ tài sản không biết tài sản đó đang ở đâu.
  • Việc chủ tài sản không biết người phạm tội chiếm đoạt tài sản của mình có thể do họ không có mặt tại địa điểm để tài sản hoặc họ có mặt nhưng người phạm tội đã dùng các thủ đoạn làm cho chủ tài sản không biết được họ thực hiện hành vi đó, hoặc chủ tài sản đang ngủ, say, ngất và việc ngủ say, ngất, ngất xỉu của nạn nhân do yếu tố khách quan, không phải do người phạm tội cố ý đưa họ vào tình trạng đó.
  • Việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người phạm tội chỉ cần chủ sở hữu hoặc ngươi có trách nhiệm quản lý đối với tài sản.

+ Hậu quả:

Việc lén lút chiếm đoạt tài sản của nạn nhân làm thất thoát tài sản của nạn nhân theo cách mà nạn nhan không biết. Tài sản có thể là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình; là di vật, cổ vật.

Tội phạm hoàn thành từ lúc chiếm đoạt được tài sản.

Mức hình phạt tại khoản 3 điều 173 bộ luật hình sự

Mức hình phạt tại điều 173 chia thành 4 khung hình phạt, trong đó mức hình phạt tại khoản 3 điều 173 bộ luật hình sự quy định từ 07 năm đến 15 năm, trong một số trường hợp sau:

  • Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

  •  

    Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh

khoản 3 điều 173 bộ luật hình sự
khoản 3 điều 173 bộ luật hình sự

Quy định về tính tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Tùy từng tình tiết cụ thể của vụ án, người phạm tội có thể bị xử lý theo các khung hình phạt khác nhau. Trường hợp này bạn không cung cấp thông tin không cụ thể (ví dụ như người phạm tội có tính chất côn đồ hay không, có hành hung để tẩu thoát hay không…) nên chỉ dựa trên những thông tin mà bạn cung cấp thì người thân của bạn đã phạm vào khoản 1 Điều 173 BLHS với khung hình phạt: “bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Theo quy định tại điều 54 BLHS thì: “Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.”

Trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ (ít nhất là 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 điều 51 BLHS) thì căn cứ vào điều 51 BLHS Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 BLHS 2015 như sau:

“1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.

2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.

3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.”

Đối với tình tiết tăng nặng,15 trường hợp sau đây được quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

(1) Phạm tội có tổ chức;

(2) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;

(3) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;

(4) Phạm tội có tính chất côn đồ;

(5) Phạm tội vì động cơ đê hèn;

(6) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;

(7) Phạm tội 02 lần trở lên;

(8) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;

(9) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người đủ 70 tuổi trở lên;

(10) Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;

(11) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;

(12) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, tàn ác để phạm tội;

(13) Dùng thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội;

(14) Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;

(15) Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.

Lưu ý: các tình tiết đã được Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi năm 2017) quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.

Trên đây là một số nội dung khoản 3 điều 173 bộ luật hình sự Luật Trần và Liên Danh giới thiệu tới quý khách, nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ nhanh nhất.

 

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139