Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là một trong các tội phạm về chức vụ xảy ra phổ biến trong thời gian gần đây, gây nên nhiều bức xúc trong dư luận. Vậy, Bộ luật Hình sự hiện hành quy định mức phạt ra sao đối với tội phạm này?

Thế nào là thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng? Ví dụ?

Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là hành vi được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn. Theo đó, những người này không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao gây ra hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng ở đây có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hay tài sản của người khác.

Hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, đồng có thể làm cho cơ quan, tổ chức bị mất uy tín, mất lòng tin, gây thất thoát, lãng phí nghiêm trọng đến tài sản của cơ quan, tổ chức.

Một số ví dụ về hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng:

– Do thiếu trách nhiệm, Kiểm sát viên đã truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người không có tội.

– Thẩm phán, Hội thẩm ra bản án kết tội người không có tội làm người đó bị tổn hại cho sức khỏe do bị giam giữ lâu ngày.

– Trong đợt dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp, một bác sĩ tại một bệnh viện A không khám sàng lọc, điều tra yếu tố dịch tễ của bệnh nhân để báo cáo cơ quan chức năng có biện pháp kiểm tra và ngăn chặn nên đã làm lây lan dịch bệnh…

Căn cứ pháp lý tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

Điều 360 Bộ luật hình sự quy định tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng như sau:

“Điều 360. Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

1. Người nào có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 179, 308 và 376 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm:

a) Làm chết người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Làm chết 02 người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

c) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:

a) Làm chết 03 người trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

Dấu hiệu pháp lý tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

Khách thể của tội phạm – Điều 360 Bộ luật hình sự

Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao gây hậu quả nghiêm trọng.

Khách thể của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào chế độ; gây thất thoát, lãng phí nghiêm trọng đến tài sản của cơ quan, tổ chức; làm cho cán bộ, công chức ở cơ quan, tổ chức mình bị thoái hoá biến chất

Mặt khách quan của tội phạm Điều 360 Bộ luật hình sự

Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao.

Hậu quả của tội phạm này là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm là một bộ phân hợp thành tội danh. Tội phạm chỉ được coi là hoàn thành khi một trong những hậu quả sau đây xảy ra:

a) Làm chết người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

Chủ thể của tội phạm Điều 360 Bộ luật hình sự

Cũng như đối với tội “thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước”, chủ thể của tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” cũng được coi là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức mới có thể là chủ thể của tội phạm này.

Mặt chủ quan của tội phạm Điều 360 Bộ luật hình sự

Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được thực hiện do vô ý.

Các dấu hiệu về vô ý phạm tội được quy định tại Điều 11 Bộ luật hình sự. Có hai trường hợp vô ý phạm tội:

Trường hợp thứ nhất là người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; khoa học luật hình sự gọi trường hợp vô ý phạm tội này là “vô ý vì quá tự tin”.

Trường hợp thứ hai là người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả , mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước. Khoa học luật hình sự gọi trường hợp vô ý phạm tội này là “vô ý vì cẩu thả”.

Động cơ phạm tội không phải là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Đây là đặc điểm khác với một số tội phạm khác mà người phạm tội có chức vụ, quyền hạn thực hiện.

Bản án về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng số 50/2021/HSPT

Nguyễn Lương T là Cán bộ quản giáo Nhà tạm giữ Công an thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa được phân công quản lý các can phạm ở buồng tạm giữ A1.3. Trần Mạnh Th được đưa vào Nhà Tạm giữ Công an thành phố Nha Trang vào ngày ngày 15/6/2019, có Giấy xác nhận khuyết tật tâm thần ở mức độ đặc biệt nặng.

Sau khi vào buồng tạm giữ A1.3, TH có hành vi la hét, quậy phá không cho BI, PH ngủ nên BI đánh nhiều nhát vào vùng mặt của TH. Liên tục 3 ngày kể ừ ngày 15/6/2019 TH đều bị BI đánh, Nguyễn Lương T trực buồng tạm giữ A1.3 nhưng không tiến hành điểm danh, kiểm diện buồng, mỗi lần chia cơm chỉ đứng ở cửa, không vào bên trong buồng nên không phát hiện ra.

Đến ngày 18/6, Bành Đinh Thanh HA nhìn thấy TH nằm dưới sàn nhà, miệng sùi nhiều bọt mép màu hồng nên báo cấp cứu, TH tử vong ngày sau đó.

Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa nhận định: Nguyễn Lương T là cán bộ quản giáo được phân công trực và quản lý buồng tạm giữ A1.3. Từ ngày 15/6/2019 đến ngày 18/6/2019, với nhiệm vụ quản lý buồng AI.3 và trong ca trực của mình, Nguyễn Lương T đã thiếu trách nhiệm trong quản lý người bị tạm giữ, không nắm bắt tình hình và không nghiên cứu đầy đủ hồ sơ liên quan đến người bị tạm giữ, nên không phát hiện được Trần Mạnh TH là người có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần để báo cáo lãnh đạo bố trí buồng tạm giữ riêng. Hàng ngày, không thực hiện việc điểm danh, kiểm diện, không kiểm tra, nắm bắt tình hình phạm nhân, để đối tượng Trần Trọng BI nhiều lần đánh Trần Mạnh TH nhưng không phát hiện để kịp thời ngăn chặn, dẫn đến Trần Mạnh TH tử vong.

Hành vi của Nguyễn Lương T đã vi phạm quy định tại điểm c mục IV Điều 10 Quy chế làm việc số 01-QC/THAHS ngày 22/5/2017 của Đội Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an thành phố Nha Trang; khoản 1, 2, 3, 4 Điều 3, khoản 2, 4, 9 Điều 5 Thông tư 22/TT-BCA ngày 16/6/2016 của Bộ Công an quy định về công tác quản giáo trong nhà tạm giữ, trại tạm giam; khoản 3, 6 Điều 8, khoản 1 Điều 9, điểm c khoản 1 Điều 13, điểm m khoản 1, điểm b khoản 4 Điều 18 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam.

Do đó, tuyên bố bị cáo Nguyễn Lương T về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” theo điểm a khoản 1 Điều 360 Bộ luật Hình sự, xử phạt 06 (sáu) tháng tù.

Hình phạt tại Điều 360 BLHS năm 2015

Điều 360 Bộ luật Hình sự quy định 04 Khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 360 Bộ Luật hình sự: Người nào có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 179, 308 và 376 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm:

  • Làm chết người;
  • Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
  • Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
  • Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 360 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

  • Làm chết 02 người;
  • Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
  • Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

Mức hình phạt tại khoản 3 Điều 360 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:

  • Làm chết 03 người trở lên;
  • Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
  • Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

Mức hình phạt tại khoản 4 Điều 360 Bộ Luật hình sự: Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 360 BLHS năm 2015

Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:

Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;      

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 360 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139