Điều 224 Bộ luật hình sự quy định tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng

Điều 224 Bộ luật hình sự quy định tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng

Quy định về Tội vi phạm về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng? Các yếu tố cấu thành Tội vi phạm về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng?

Trong bài viết này, Luật Trần và Liên Danh sẽ giúp mọi người nắm được quy định pháp luật về tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng.

Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 224 Bộ luật hình sự 2015

Điều 224 Bộ luật hình sự quy định tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng như sau:

Điều 224. Tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng

1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau đây, gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Quyết định đầu tư xây dựng không đúng quy định của Luật xây dựng;

b) Lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán, điều chỉnh dự toán, nghiệm thu công trình sử dụng vốn của Nhà nước trái với quy định của Luật xây dựng;

c) Lựa chọn nhà thầu không đủ điều kiện năng lực để thực hiện hoạt động xây dựng;

d) Dàn xếp, thông đồng làm sai lệch kết quả lập dự án, khảo sát, thiết kế, giám sát thi công, xây dựng công trình.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm:

a) Vì vụ lợi;

b) Có tổ chức;

c) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;

d) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.

3. Phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Dấu hiệu pháp lý tại Điều 224 Bộ luật hình sự 2015

Khách thể của tội phạm – Điều 224 Bộ luật hình sự 2015

Khách thể của tội phạm là trật tự quản lý nhà nước về đầu tư công trình xây dựng, và thân thể, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của con người và tổ chức có liên quan đến công trình xây dựng.

Đối tượng của tội phạm là các công trình xây dựng và dự án đầu tư công trình xây dựng.

Mặt khách quan của tội phạm – Điều 224 Bộ luật hình sự 2015

Mặt khách quan của tội phạm gồm hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn và 04 hành vi sau:

a) Quyết định đầu tư xây dựng không đúng quy định của Luật xây dựng;

Ví dụ: người phạm tội là đại diện theo pháp luật đối với cơ quan nơi mình công tác (người quyết định đầu tư) đã phê duyệt dự án và quyết định đầu tư xây dựng trong khi biết rõ dự án không đáp ứng mục tiêu và hiệu quả.

b) Lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán, điều chỉnh dự toán, nghiệm thu công trình sử dụng vốn của Nhà nước trái với quy định của Luật xây dựng;

c) Lựa chọn nhà thầu không đủ điều kiện năng lực để thực hiện hoạt động xây dựng;

Cá nhân tham gia hoạt động xây dựng phải có văn bằng, chứng chỉ đào tạo phù hợp với công việc đảm nhận do các cơ sở đào tạo hợp pháp cấp.

Nhà thầu là tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động xây dựng tại Việt Nam phải tuân thủ quy định của pháp luật về đấu thầu và được cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng cấp giấy phép hoạt động.

d) Dàn xếp, thông đồng làm sai lệch kết quả lập dự án, khảo sát, thiết kế, giám sát thi công, xây dựng công trình.

Dàn xếp, thông đồng làm sai lệch kết quả là hành vi giữa người có trách nhiệm thực hiện việc lập dự án, khảo sát, thiết kế, giám sát thi công, xây dựng công trình với người có trách nhiệm kiểm tra, theo dõi, giám sát hoạt động trên.

Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hậu quả làm thất thoát tiền thuế phải nộp từ 100.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm xảy ra. Nếu hậu quả của tội phạm chưa nghiêm trọng theo quy định của Điều 224 Bộ luật Hình sự, người phạm tội tuy không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng vẫn phải chịu xử phạt vi phạm hành chính tại Nghị định 139/2017/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2017 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đầu từ xây dựng.

Chủ thể của tội phạm – Điều 224 Bộ luật hình sự 2015

Chủ thể của tội phạm là chủ thể đặc biệt, chỉ những có chức vụ quyền hạn đối với việc lập, thẩm định, phê duyệt, quyết định, thiết kế, giám sát, lựa chọn nhà thầu,… trong đầu tư công trình xây dựng.

Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ.

Người có quyền hạn có thể là người có hoặc không có chức vụ, nhưng được giao cho quyền hạn nhất định về lĩnh vực đó.

Người có chức vụ, quyền hạn, phải là người có trách nhiệm trong việc đầu tư công trình xây dựng,  nếu họ không có trách nhiệm trong việc đầu tư công trình xây dựng thì cũng không thể là chủ thể của tội này được. Đây là điều kiện cần và đủ để một người có thể trở thành chủ thể của tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng.

Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ 16 tuổi trở lên.

Điều 224 Bộ luật hình sự quy định tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng
Điều 224 Bộ luật hình sự quy định tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng

Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 224 Bộ luật hình sự 2015

Người thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Tức là người phạm tội hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình là hành vi không được phép nhưng vẫn muốn thực hiện hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc dù không mong muốn nhưng vẫn có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.

Động cơ và mục đích không phải dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. Thông thường người phạm tội này vì vụ lợi.

Mức hình phạt tại Điều 224 Bộ luật hình sự 2015

Điều 224 Bộ luật Hình sự quy định 04 Khung hình phạt đối cá nhân như sau:

Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 244 Bộ Luật hình sự: Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau đây, gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

  • Quyết định đầu tư xây dựng không đúng quy định của Luật xây dựng;
  • Lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán, điều chỉnh dự toán, nghiệm thu công trình sử dụng vốn của Nhà nước trái với quy định của Luật xây dựng;
  • Lựa chọn nhà thầu không đủ điều kiện năng lực để thực hiện hoạt động xây dựng;
  • Dàn xếp, thông đồng làm sai lệch kết quả lập dự án, khảo sát, thiết kế, giám sát thi công, xây dựng công trình.

Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 244 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm:

  • Vì vụ lợi;
  • Có tổ chức;
  • Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
  • Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.

Mức hình phạt tại khoản 3 Điều 244 Bộ Luật hình sự:  Phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.

Mức hình phạt tại khoản 4 Điều 244 Bộ Luật hình sự: Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 244 Bộ Luật hình sự 2015

Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:

Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;      

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 224 Bộ luật hình sự. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139