Cưỡng dâm là hành vi phạm tội của người vi phạm thực hiện với người lệ thuộc họ. Trong đó, các thủ đoạn được thực hiện để ép người phụ thuộc, người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu. Do đó, tội phạm này đang xâm phạm đến các quyền cơ bản được bảo vệ sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác. Tội phạm được quy định tại Điều 143 BLHS quy định Tội cưỡng dâm. Cùng tìm hiểu các dấu hiệu pháp lý, cấu thành của tội phạm và khung hình phạt cho tội danh này.
Quy định chi tiết vê tội cưỡng dâm tại Điều 143 Bộ luật hình sự 2015
Tội cưỡng dâm tại Điều 143 BLHS là hành động của một người sử dụng tất cả các phương tiện để khiến người khác phụ thuộc hoặc người trong tình trạng khẩn cấp, quẫn bách để miễn cưỡng quan hệ tình dục với người đó.Tội cưỡng dâm được quy định trong Điều 143 BLHS 2015 như sau:
1. Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Nhiều người cưỡng dâm một người;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Đối với 02 người trở lên;
d) Có tính chất loạn luân;
đ) Làm nạn nhân có thai;
e) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60%;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 18 năm:
a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4. Cưỡng dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
5. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.
Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Phân Tích các dấu hiệu pháp lý của Tội Cưỡng Dâm Điều 143 Bộ luật hình sự 2015
Chủ thể của tội phạm – Điều 143 Bộ luật hình sự
Tội cưỡng dâm Khác với hiếp dâm, Tội cưỡng dâm có các đối tượng ở đây có thể là cả nam và nữ miễn là họ có năng lực trách nhiệm hình sự. Đồng thời, người phạm tội phải có mối quan hệ phụ thuộc với nạn nhân hoặc có mối quan hệ nhất định trong việc hỗ trợ và giúp đỡ nạn nhân trong tình trạng khẩn cấp.
Khách thể của tội phạm – Điều 143 Bộ luật hình sự
Là hành vi cưỡng dâm người khác khiến họ bị xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng.
Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 143 Bộ luật hình sự
Những người phạm tội bị ép buộc phạm tội này với lỗi cố ý và nhằm mục đích xâm phạm sức khỏe và tính mạng của người khác.
Mặt khách quan của tội phạm – Điều 143 Bộ luật hình sự
Về hành vi:
Những kẻ phạm tội cưỡng dâm sử dụng nhiều chiến thuật khác nhau như lừa dối, hối lộ, dụ dỗ, đe dọa hoặc tình cảm, bằng tiền, đôi khi chỉ là một lời hứa … đó là, kẻ phạm tội không đến từ bất kỳ mánh khóe nào miễn là có ý định quan hệ tình dục với nạn nhân hoặc lợi dụng nạn nhân đang trong tình trạng khẩn cấp để họ phải miễn cưỡng quan hệ tình dục với chính mình.
Đối với tấn công tình dục, quan hệ tình dục với nạn nhân không chỉ là một dấu hiệu khách quan của thành phần mà còn là dấu hiệu bắt buộc (một dấu hiệu cần và đủ). Nếu các dấu hiệu khác là thỏa đáng nhưng không có quan hệ tình dục đã xảy ra, nó không cấu thành tội phạm.
Về hậu quả:
Hậu quả của hiếp dâm không được xác định trong thực tế, bởi vì các nhà lập pháp xem xét hành vi để xác định tội phạm và không dựa vào hậu quả thực tế của hiếp dâm để xác định liệu một người có hành vi tình dục hay không.
Đây là một tội phạm hình thành, nghĩa là người phạm tội thỏa mãn các dấu hiệu của tội phạm trong tội phạm cấu thành được xác định là đã phạm tội này, mà không phải dựa vào hậu quả của sự ép buộc của mình để ép buộc người khác. giao hợp hoặc miễn cưỡng thực hiện các hành vi tình dục khác như thế nào.
Các dấu hiệu của hành vi cưỡng dâm Điều 143 Bộ luật hình sự 2015
Người phạm tội
Nếu trong tội hiếp dâm, người thực hành chỉ có thể là nam và những người khác trong vụ án tội phạm có thể là nữ, tội phạm hiếp dâm có thể bao gồm cả nữ. Tuy nhiên, thực tế đánh giá nữ phạm nhân là rất hiếm, nhưng chủ yếu vẫn là nam.
Những kẻ phạm tội cưỡng dâm sử dụng rất nhiều chiến thuật khác nhau như lừa dối, hối lộ, dụ dỗ, đe dọa hoặc tình cảm, bằng tiền, đôi khi chỉ là một lời hứa … đó là, kẻ phạm tội không đến từ bất kỳ mánh khóe nào miễn là có ý định quan hệ tình dục với nạn nhân hoặc lợi dụng nạn nhân đang trong tình trạng khẩn cấp để họ phải miễn cưỡng quan hệ tình dục với chính mình.
Đối với hành vi cưỡng dâm, quan hệ tình dục với nạn nhân không chỉ là một dấu hiệu khách quan của thành phần mà còn là dấu hiệu bắt buộc (một dấu hiệu cần và đủ). Nếu các dấu hiệu khác là thỏa đáng nhưng không có quan hệ tình dục đã xảy ra, nó không cấu thành tội phạm. Do đó, đối với tội cưỡng dâm, không có tội phạm chưa đạt.
Nạn nhân
Nạn nhân của các vụ cưỡng dâm tại Điều 143 BLHS 2015 cũng có thể là đàn ông, nhưng chủ yếu là phụ nữ. Dù là nam hay nữ, họ phải phụ thuộc vào người phạm tội, nếu không phải là người phụ thuộc, họ cũng phải ở trong tình trạng cần thiết.
Một người trong tình trạng khẩn cấp là một người không có mối quan hệ phụ thuộc với người phạm tội, nhưng vì nhiều lý do họ rơi vào tình trạng đó, họ miễn cưỡng quan hệ tình dục với người phạm tội, họ rơi vào tình huống này khôn ngoan hơn chọn một hành vi bình thường như những người khác hoặc trong những thời điểm bình thường khác.
Cho dù người đó phụ thuộc vào người phạm tội hay người bị chèn ép, quan hệ tình dục của họ với người phạm tội là miễn cưỡng. Sự miễn cưỡng của nạn nhân là ý thức chủ quan của họ, vì vậy trong nhiều trường hợp, việc xác định nó không phải lúc nào cũng dễ dàng. Có những người khi họ quan hệ tình dục nhưng họ không miễn cưỡng, nhưng sau đó, vì một số lý do, họ tố cáo rằng họ phải miễn cưỡng quan hệ tình dục hoặc ngược lại, khi họ quan hệ tình dục, họ miễn cưỡng nhưng sau đó họ tuyên bố rằng đó là không phải miễn cưỡng.
Do đó, để xác định liệu nạn nhân có miễn cưỡng quan hệ tình dục với người phạm tội hay không, cần phải căn cứ vào hoàn cảnh khách quan của vụ án, đặc biệt là mối quan hệ phụ thuộc giữa nạn nhân và hoàn cảnh người phạm tội tại thời điểm quan hệ tình dục.
Mức hình phạt của tội cưỡng đâm Điều 143 Bộ luật hình sự 2015
Các khung hình phạt của tội cưỡng dâm được quy định trong Điều 143 BLHS 2015 như sau:
Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 143 Bộ Luật hình sự: Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 143 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
- Nhiều người cưỡng dâm một người;
- Phạm tội 02 lần trở lên;
- Đối với 02 người trở lên;
- Có tính chất loạn luân;
- Làm nạn nhân có thai;
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60%;
- Tái phạm nguy hiểm.
Mức hình phạt tại khoản 3 Điều 143 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 18 năm:
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
- Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
- Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
Mức hình phạt tại khoản 4 Điều 143 Bộ Luật hình sự: Cưỡng dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.
Mức hình phạt tại khoản 5 Điều 143 Bộ Luật hình sự: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 143 Bộ Luật hình sự 2015
Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:
Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Trên đây là nội dung tại Điều 143 BLHS quy định về Tội cưỡng dâm nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.