Vai trò của thuế giá trị gia tăng

vai trò của thuế giá trị gia tăng

Thuế giá trị gia tăng là một trong những loại thuế mà doanh nghiệp phải nộp khi hoạt động sản xuất, kinh doanh. Vậy vai trò của thuế giá trị gia tăng như thế nào? Quý bạn đọc hãy cùng Luật Trần và Liên Danh chúng tôi tìm hiểu trong bài viết sau đây.

Khái niệm thuế giá trị gia tăng

Thuế giá trị gia tăng là một dạng của thuế bán hàng. Tại một số quốc gia, như: Australia, Canada, New Zealand, Singapore thì thuế này được gọi là “goods and services tax” (viết tắt GST) nghĩa là thuế hàng hóa và dịch vụ; còn tại Nhật Bản thì nó được biết đến dưới tên gọi “thuế tiêu thụ”. Thuế GTGT là một loại thuế gián thu, được đánh vào người tiêu dùng cuối cùng, mặc dù chủ thể đem nộp thuế cho cơ quan thu là các doanh nghiệp.

Do thuế GTGT có mục đích là một khoản thuế đối với việc tiêu thụ, cho nên hàng xuất khẩu (theo định nghĩa này thì người tiêu dùng ở nước ngoài) thường không phải chịu thuế thuế GTGT hoặc cách khác, thuế GTGT đối với người xuất khẩu được hoàn lại.

Người tiêu dùng cuối cùng của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ không thể được hoàn lại thuế GTGT khi mua hàng, nhưng các doanh nghiệp thì có thể được hoàn lại thuế GTGT đối với nguyên vật liệu và dịch vụ mà họ mua để tạo ra các sản phẩm hay dịch vụ tiếp theo để trực tiếp hay gián tiếp bán cho người sử dụng cuối. Theo cách này, tổng số thuế phải thu ở mỗi công đoạn trong dây chuyền kinh tế là một tỷ lệ cố định đối với phần giá trị gia tăng được công đoạn kinh doanh thêm vào trong sản phẩm, và phần lớn chi phí trong phần thu thuế được sinh ra bởi việc kinh doanh chứ không phải bởi nhà nước.

Thuế GTGT được một nhà kinh tế học người Pháp là Maurice Lauré nghĩ ra và Pháp là nước đầu tiên trên thế giới ban hành và áp dụng Luật thuế giá trị gia tăng vào năm 195439. Thuế giá trị gia tăng theo tiếng Pháp gọi là: Taxe Sur La Valeur Ajoutée (viết tắt là TVA), tiếng Anh gọi là Value Added Tax (viết tắt là VAT), dịch ra tiếng Việt là thuế GTGT.

Khai sinh từ nước Pháp, thuế GTGT đã được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Ngày nay, các quốc gia thuộc khối Liên minh châu Âu, châu Phi, châu Mỹ La Tinh và một số quốc gia châu Á trong đó có Việt Nam đã chính thức áp dụng thuế giá trị gia tăng. Tính đến nay đã có khoảng 130 quốc gia áp dụng thuế giá trị gia tăng.

Ở Việt Nam, trước năm 1989 – 1990 áp dụng chế độ thuế doanh thu đối với khu vực kinh tế tập thể và cá thể. Ngày 30 tháng 6 năm 1990 thuế doanh thu ra đời thu và sản phẩm dịch vụ của tất cả cơ sở kinh doanh.

Sau gần 10 năm áp dụng, chính sách thuế doanh thu đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế: như tính trùng lắp của thuế, thuế đánh chồng lên thuế và với 11 mức thuế suât khác nhau… Vi vậy, tại kỳ họp lần thứchỗ Quốc hội khoá 9, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật thuế giá trị gia tăng và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-01-1999 thay cho thuế doanh thu, về cơ bản khắc phục được những nhược điểm trên của thuế doanh thu. Đó là thuế GTGT áp dụng có một số ưu điểm:

– Thuế GTGT khắc phục sự trùng lắp của thuế doanh thu: vì thuế giá trị gia tăng chỉ đánh trên phần giá trị tăng thêm qua các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh hoặc cung ứng dịch vụ.

– Diện thu rộng, tạo nguồn thu ổn định: Thuế giá trị gia tăng đánh hầu như các mặt hàng, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và cung ứng dịch vụ chỉ trừ một số mặt hàng theo phương thức loại trừ tuỳ thuộc từng thời điểm và tuỳ thuộc vào các quốc gia quy định. Số thu từ thuế GTGT. Số thu về thuế GTGT trong tổng số thu thuế vào khoảng 3%- 4% GDP ở hầu hết các nước40. Ở Việt Nam, năm 2010 số thu từ thuế GTGT khoảng 7,84%GDP, năm 2011 là 8,59%GDP.

Chỉ tính riêng năm 2011, sô thu từ thuế GTGT chiếm tới 32,54% tổng số thu từ thuế41. Đồng thời tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước vì nếu giá bán hàng hoá hay giá cung ứng cho người tiêu dùng cuối cùng không thay đổi thì tổng số thuế thu được ở mỗi khâu sẽ bằng số thuế tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.

– Thúc đẩy chế độ hạch toán, kế toán, chế độ hoá đơn chứng từ: áp dụng chính sách thuế GTGT đòi hỏi phải thực hiện đầy đủ chế độ kế toán hoá đơn chứng từ vì đây là cơ sở đảm bảo cho chủ thể tham gia trong quan hệ này được khấu trừ và hoàn thuế, tạo nề nếp trong quan hệ chứng từ kế toán và một cơ chế pháp lý thống nhất thuận tiện cho việc quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh.

– Khắc phục tình trạng thông đồng thuế giữa các khâu kinh doanh: do tính chất gián thu và khấu trừ trong thuế GTGT nên nếu có sự thông đồng về thuế thì chủ thể thông đồng phải gánh chịu nghĩa vụ thuế thay.

– Khuyến khích xuất khẩu: với việc áp dụng thuế suất 0% đối với hàng hoá xuất khẩu, có nghĩa là hàng hoá khi xuất khẩu nếu chịu thuế ở khâu đầu vào thì được hoàn trả lại phần thuế này.

Như vậythuế GTGT là loại thuế gián thu, đánh trên phần giá trị tăng thêm qua mỗi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, tổng số thuế thu được ở mỗi khâu chính bằng số thuế tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.

Đặc điểm cơ bản của thuế giá trị gia tăng

1/ Đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng có phạm vi rộng từ hàng hóa, sản phẩm cũng như dịch vụ khi sản xuất, kinh doanh và được tiêu thụ thường sẽ bị đánh thuế giá trị gia tăng.

2/ Bản chất là thuế gián thu nên việc chịu thuế thể hiện thông qua việc mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của người tiêu dùng. Người mua không trả thuế trực tiếp như thuế thu nhập cá nhân mà bằng thanh toán hàng hóa, dịch vụ cho người bán và người bán có trách nhiệm nộp thuế vào ngân sách nhà nước.

3/ Thuế giá trị gia tăng đánh sẽ đánh vào phần giá trị tăng thêm của sản phẩm, hàng hóa ở các khâu khác nhau.

Vai trò quan trọng của thuế giá trị gia tăng

Tăng nguồn thu cho Ngân sách nhà nước

Một trong những vai trò nổi bật của thuế là tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Thuế giá trị gia tăng còn đặc biệt hơn các loại thuế còn lại khi là một trong các sắc thuế phổ biến nhất góp phần quản lý và điều tiết xã hội. 

Mục đích lâu dài khi định ra các loại thuế, thuế suất, đối tượng chịu thuế chính phủ không chỉ đơn thuần thỏa mãn nhu cầu tăng thu của ngân sách nhà nước, mà phải thỏa mãn đồng thời yêu cầu tăng trưởng kinh tế và điều chỉnh thu nhập. 

Việc đáp ứng cả ba yêu cầu đó đòi hỏi chính phủ phải tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng khi ban hành các loại thuế, bởi vì nguồn thu của thuế bắt nguồn từ thu nhập quốc dân, khả năng động viên của thuế phụ thuộc chủ yếu vào phát triển của sản xuất, hiệu quả của sản xuất.

vai trò của thuế giá trị gia tăng
vai trò của thuế giá trị gia tăng

Theo báo cáo về Tỉ trọng thu thuế trong tổng thu ngân sách của Việt Nam cho biết tỉ trọng của thuế gián thu trong tổng thu thuế ngày càng tăng và đã vượt quá con số 60% vào năm 2016 và chiếm 11% GDP. Thuế GTGT là nguồn thu, chiếm từ 50% đến 60% tổng số thu của thuế gián thu trong giai đoạn 2006 – 2019. 

Thúc đẩy lưu thông hàng hóa

Luật thuế GTGT góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá và đẩy mạnh xuất khẩu. 

Việc thực hiện Luật thuế GTGT tạo điều kiện cho giá thành các công trình đầu tư xây dựng cơ bản giảm khoảng 10% vì toàn bộ thuế GTGT của các công trình đầu tư xây dựng cơ bản được hạch toán riêng không tính vào giá thành công trình. Không phải khấu hao tài sản sau này mà được khấu trừ hoặc hoàn thuế. 

Mặt khác khi nhập khẩu thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dụng, loại trong nước chưa sản xuất được để đầu tư TSCĐ theo dự án thì không thuộc diện chịu thuế GTGT. 

Đặc biệt khi giảm 50% thuế suất đối với các sản phẩm xây dựng cơ bản thì mức thuế còn phải nộp sau khi khấu trừ đầu vào bình quân chỉ còn khoảng 1% so với 4% so với thuế doanh thu thể hiện khuyến khích đầu tư mạnh.

Khuyến khích xuất – nhập khẩu

Mặt khác, Luật thuế GTGT đã góp phần khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, sắp xếp cơ cấu lại nền kinh tế. Theo quy định của Luật thuế GTGT, hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% tức là toàn bộ thuế GTGT đã nộp ở đầu vào được hoàn lại, việc hoàn thuế đối với hàng hoá xuất khẩu thực chất là nhà nước trợ giá cho hàng hoá xuất khẩu nên đã giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu tập trung được nguồn hàng trong nước để xuất khẩu nên đã giúp doanh nghiệp xuất khẩu tập trung được nguồn hàng trong nước để xuất khẩu và có điều cạnh tranh được với hàng hoá trên thị trường quốc tế. 

Trong năm 1999 số tiền hoàn vốn tăng cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Khoảng 2.700 tỷ đồng, năm 2000 là 5.000 tỷ đồng. Vì vậy, trong điều kiện xuất khẩu bị hạn chế, giá xuất khẩu giảm nhưng tổng giá trị xuất khẩu của nước ta vẫn tăng so với năm 1998 là 23,18%, năm 2000 tăng 21,3%. Trong đó có những mặt hàng được hoàn thuế đầu vào nhiều, xuất khẩu tăng so với năm 1998 như: cao su 37,2%, cà phê 27,6%, gạo 21,4%, thuỷ sản 14,1%, giày dép 36,3%, dệt may 15,1%, thủ công mỹ nghệ 52%, điện tử 54%.

Ngoài việc được hoàn thuế GTGT, các dự án đầu tư có giá trị hàng xuất khẩu đạt trên 30% tổng giá trị hàng hoá còn được hưởng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi 25%, nếu có giá trị hàng hoá xuất khẩu trên 50% tổng giá trị hàng hóa được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung nên đã tạo điều kiện về vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu hoạt động.

Luật thuế GTGT khuyến khích việc sản xuất hàng xuất khẩu thay thế nhập khẩu, đặc biệt Luật thuế GTGT đã khuyến khích việc sản xuất kinh doanh những hàng mà Việt Nam có thế mạnh như nông sản, lâm sản, hải sản, thủ công mỹ nghệ.

Thúc đẩy chế độ hạch toán, kế toán, sử dụng hóa đơn, chứng từ và thanh toán qua ngân hàng

Đặc biệt Luật thuế GTGT góp phần đến công tác quản lý của doanh nghiệp tạo điều kiện cho cơ quan Nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, tăng cường công tác hạch toán, kế toán và thúc đẩy việc mua bán hoá đơn GTGT ở các doanh nghiệp. 

Do yêu cầu của việc kê khai thuế GTGT, khấu trừ thuế GTGT đầu vào, tính đúng thu nhập của doanh nghiệp nên những người làm công tác quản lý kinh doanh đã bắt đầu trú trọng đến công tác mở sổ kế toán, ghi chép, quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ. 

Thông qua việc chấp hành công tác kế toán, hoá đơn chứng từ của các doanh nghiệp, qua việc kê khai thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế đã giúp cơ quan chức năng và cơ quan thuế từng bước nắm được tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Để được tư vấn một cách chi tiết và đầy đủ hơn về vai trò của thuế giá trị gia tăng Quý khách hàng vui lòng liên hệ qua Tổng đài tư vấn 0969 078 234 của Luật Trần và Liên Danh. Chúng tôi luôn sẵn sàng tư vấn, hỗ trợ Quý khách hàng những vấn đề pháp lý chất lượng hàng đầu trên toàn quốc.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139