Tội không chấp hành án là gì? Mức phạt thế nào?

Tội không chấp hành án là gì Mức phạt thế nào

Không chấp hành án, được hiểu là hành vi của người có thẩm quyền của cơ quan thi hành án đã không ký quyết định thi hành án hoặc không đưa ra thi hành bản án, quyết định của Tòa án một cách cố ý. Vậy Tội không chấp hành án là gì? Mức phạt thế nào?

Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 380 Bộ luật hình sự 2015

Điều 380 Bộ luật hình sự quy định tội không chấp hành án như sau:

“Điều 380. Tội không chấp hành án

1. Người nào có điều kiện mà không chấp hành bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:

a) Chống lại chấp hành viên hoặc người đang thi hành công vụ;

b) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;

c) Tẩu tán tài sản.

3. Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”

Dấu hiệu pháp lý của tội không chấp hành án Điều 380 Bộ luật hình sự 2015

Khách thể của tội phạm – Điều 380 Bộ luật hình sự

Không chấp hành án là hành vi cố ý không chấp hành bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù có điều kiện.

Tội không chấp hành bản án cũng là tội xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và của người được thi hành án.

Đối tượng tác động của tội phạm này lại chính là các bản án và quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.

Bản án của Toà án là một văn bản tố tụng do Thẩm phán, Hội thẩm nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành nhằm ghi nhận kết quả xét xử của Hội đồng xét xử.

Quyết định của Toà án cũng là một văn bản tố tụng có thể Hội đồng xét xử ban hành nhưng cũng có thể chỉ do một Thẩm phán ban hành như: quyết định hoà giải thành, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định kê biên tài sản, quyết định thi hành án phạt tù, quyết định bắt buộc chữa bệnh.v.v…

Bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bao gồm:

– Những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm;

– Những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;

– Những quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

– Các quyết định tuy chưa có hiệu lực pháp luật nhưng theo quy định của pháp luật thì các quyết định này phải được thi hành ngay.

Bản án hoặc quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật chỉ là đối tượng tác động của tội phạm này khi bản án hoặc quyết định đó thuộc trách nhiệm của những người tham gia tố tụng phải có nghĩa vụ thi hành, còn bản án hoặc quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật mà trách nhiệm thi hành là của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng thì không phải là đối tượng tác động của tội phạm này.

Như vậy, khách thể của tội phạm là hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và của người được thi hành án.

Mặt khách quan của tội phạm Điều 380 Bộ luật hình sự

Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi có điều kiện mà không chấp hành bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

Hành vi không chấp hành án có thể thực hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động.

Không hành động là không làm một việc mà có nghĩa vụ phải làm và có thể làm được. Người phạm tội không chấp hành án là không thi hành quyết định của bản án và các quyết định khác của Toà án mà họ có nghĩa vụ phải thi hành như: không nộp tiền bồi thường cho Cơ quan thi hành án để bồi thường cho người bị hại theo bản án đã tuyên, không giao nộp tài sản mà bản án quyết định tuyên tịch thu nộp vài Ngân sách Nhà nước; không góp phí tổn nuôi con chung sau khi ly hôn; không chịu cấp dưỡng cho người được cấp dưỡng theo quyết định của bản án,…

Đi kèm với không hành động, người phạm tội có thể thực hiện hành vi không chấp hành án dưới dạng hành động như: bỏ trốn, tránh mặt lúc lực lượng thi hành lệnh cưỡng chế, khoá cửa không cho lực lượng thi hành án đến thi hành, thậm chí có hành vi chống đối, lăng mạ, hành hung cán bộ thi hành án; tẩu tán tài sản đã bị kê biên,…

Hậu quả của tội phạm là khiến cho bản án hoặc quyết định của tòa chưa thể hoặc không thể thực hiện được. Hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội phạm. Tội phạm hoàn thành hành vi khách quan xảy ra.

Tuy nhiên người thực hiện hành vi thuộc mặt khách quan chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp người thực hiện hành vi đó đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

Chủ thể của tội phạm Điều 380 Bộ luật hình sự

Chủ thể của tội phạm này tuy không phải là chủ thể đặc biệt, nhưng cũng chỉ có những người có nghĩa vụ trong việc chấp hành bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mới có thể là chủ thể của tội phạm này.

Những người có nghĩa vụ trong việc chấp hành bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật là những người mà theo quy định của pháp luật họ phải có nghĩa vụ chấp hành như: bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự; đương sự trong các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình; các vụ án kinh tế, hành chính, lao động.

Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.

Mặt chủ quan của tội phạm Điều 380 Bộ luật hình sự

Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Tức là người phạm tội nhận thức được hậu quả cũng như hành vi mình thực hiện là trái pháp luật nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó hoặc dù không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.

Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này, dù người phạm tội với động cơ nào đi nữa thì hành vi không chấp hành án vẫn cấu thành tội phạm. Đối với tội phạm này, người phạm tội chủ yếu là vì động cơ cá nhân.

Tội không chấp hành án là gì Mức phạt thế nào
Tội không chấp hành án là gì Mức phạt thế nào

Hình phạt đối với người phạm tội không chấp hành án

Luật sư hình sự tư vấn khung hình phạt tội không chấp hành án: (Điều 380 Bộ luật hình sự 2015)

Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 380 Bộ luật hình sự: Người nào có điều kiện mà không chấp hành bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 380 Bộ luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:

  • Chống lại chấp hành viên hoặc người đang thi hành công vụ;
  • Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
  • Tẩu tán tài sản.

Mức hình phạt tại khoản 3 Điều 380 Bộ luật hình sự: Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Có thể thấy, so với Bộ luật hình sự 1999 thì Bộ luật hình sự đã có những sửa đổi, bổ sung, điều luật mới quy định bổ sung tình tiết “có điều kiện” mà không chấp hành án và bổ sung tình tiết đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này; Về hình phạt, điều luật mới giảm mức tối thiểu và tối đa, bỏ phạt cải tạo không giam giữ tại khoản 1; bổ sung hình phạt mới tại khoản 2 và khoản 3 và quy định cụ thể các tình tiết định khung tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 380 BLHS năm 2015

Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:

Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;      

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 380 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139