Theo quy định của bộ luật hình sự mới năm 2015 (Luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì hình phạt với tội cố ý gây thương tích quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 được quy định như thế nào ? Vấn đề này sẽ được luật sư tư vấn và giải đáp cụ thể như sau:
Tội cố ý gây thương tích là gì?
Tội cố ý gây thương tích là là hành vi vi phạm pháp luật nhằm mục đích cố ý do người đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện xâm phạm đến thân thể, sức khỏe người khác, được biểu hiện bằng thương tích xác định cụ thể thông qua cơ quan giám nhiệm thương tật.
Đây là hành vi có tính chất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của con người – căn cứ tại Điều 134: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.
Cấu thành tội phạm là gì?
Cấu thành tội phạm là là phương pháp xác định những dấu hiệu cần và đủ, quan trọng cho tội phạm cụ thể được quy định trong luật.
Tuy có rất nhiều tội phạm thể hiện khác nhau về tính chất cũng biểu hiện ở những mức độ hoàn toàn khác, nhưng vẫn có các điểm chung thể hiện tại bốn yếu tố cấu thành mà bất kỳ một tội phạm nào khi xác định là tội phạm của bộ luật hình sự cũng phải có, đó là:
– Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được pháp luật Luật hình sự bảo vệ khi bị tội phạm xâm hại,gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại.
– Mặt khách quan của tội phạm là những hành vi bên ngoài tội phạm. Cụ thể bao gồm các dấu hiệu sau: hành vi nguy hiểm cho xã hội ,hậu quả tác hại do tội phạm gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm và hậu quả do hành vi đó gây ra ; thời gian, địa điểm; công cụ phương tiện thực hiện tội phạm…
– Mặt chủ quan của tội phạm là những biểu hiện nằm bên trong của tội phạm,là hành vi độ tâm lý của người phạm tội.Mặt chủ quan của tội phạm gồm các dấu hiệu,động cơ, mục đích,lỗi của tội phạm.
– Chủ thể của tội phạm là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội ,mà hành vi đó phải chịu trách nhiệm hình sự.Chủ thể của tội phạm phải là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo quy định của pháp luật Hình sự
Tại sao phải xác định yếu tố cấu thành tội phạm?
Xác định rõ cấu thành tội phạm có ý nghĩa lớn trong định tội cho tội phạm và để phân biệt các loại tội phạm với nhau đặc biệt để không bị hiểu nhầm trong luật hình sự khi việc nhầm lẫn giữa các tội là rất dễ xảy ra nếu không xác định rõ yếu tố cấu thành tội phạm. Chính vì lẽ đó muốn định tội chính xác phải hiểu rõ cấu thành tội phạm
Phân tích các dấu hiệu pháp lý của Tội cố ý gây thương tích quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015
Mặt khách quan của tội phạm – Điều 134 Bộ luật hình sự
Có thể hiểu hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi được điều khiển và nhận thức của người phạm tội mong muốn gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác một cách cố ý. Là hành vi vi phạm pháp luật nguy hiểm cho xã hội, trái pháp quy định luật hình sự quy định.
Cụ thể tại các yếu tố sau:
– Phương tiện và công cụ thực hiện phạm tội: Người phạm tội sử dụng các phương tiện mang tính chất nguy hiểm cao nhằm gây thương tích ảnh hưởng lớn tới tính mạng: lựu đạn, súng, chất nổ, dao găm…Có thể là một cách xác định mong muốn và tâm lý gây cho nạn chết. Nếu người phạm tội không lựa chọn hoặc chỉ lựa chọn loại phương tiện ít nguy hiểm đến tính mạng thì phần nào thể hiện không mong muốn nạn nhân chết. Cho nên, dựa vào việc người phạm tội sử dụng công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội có thể xác định được là thật sự người phạm tội mong muốn giết người hay chỉ đơn thuần gây thương tích để tự vệ chính đáng, tổn hại sức khỏe của nạn nhân nhằm bảo vệ bản thân.
– Vị trí xác định thương tích , tổn hại sức khỏe trên cơ thể nạn nhân: Một người đủ năng lực chịu trách nhiệm pháp lý hoàn toàn có thể nhận thức được khi tấn công vào những nơi xung yếu trên cơ thể như: vùng đầu, vùng ngực, vùng cổ, vùng bụng… cùng với việc tấn công vào những nơi được coi là không xung yếu trên cơ thể – Kết hợp với các dụng cụ có thể hay không thể gây đến thương tích và cái chết cho nạn nhân là hoàn toàn đúng. Như vậy xác định yếu tố cấu thành hành vi cố ý gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe nhưng không phải là hành vi giết người.
– Mức độ nghiêm trọng của hành cố ý gây thương tích: Yếu tố để cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe tùy thuộc vào mức độ tấn công với cường độ mạnh hay yếu cùng với vị trí tấn công trên cơ thể xem hành vi đó có dồn dập và cường độ tấn công mạnh. Nếu cường độ tấn công không mạnh và những vị trí tấn công không xung yếu, không nhằm tước đi sinh mạng của nạn nhân, khi đó sẽ không xác định là hành vi giết người mà là hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác.
– Hậu quả của tội phạm: Hậu quả của cấu thành hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác được thể hiện ở tỷ lệ thương tật do cơ quan giám nhiệm kết luận, là việc mất sức lao động của nạn nhân quy định tại Theo điều 104 bộ tố tụng hình sự quy định: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định như sau:
Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Có tổ chức;
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.
Chủ thể của tội phạm – Điều 134 Bộ luật hình sự
Được thực hiện bởi người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định thực hiện hành có lỗi trong việc thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho người khác.
Khách thể của tội phạm – Điều 134 Bộ luật hình sự
Khách thể tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác là quyền được pháp luật bảo vệ về sức khỏe.
Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 134 Bộ luật hình sự
Mong muốn gây ra thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác,là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý gây thương tích.Với mục đích phạm tội là gây ra những tổn hại sức khỏe có thể nhìn thấy được về vật chất, tinh thần cho nạn nhân. So với tội giết người, thì sự cố ý trong trường hợp gây thương tích mức độ nguy hiểm có thấp hơn, vì người phạm tội chỉ mong muốn hoặc để mặc cho nạn nhân bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ chứ không mong muốn nạn nhân chết.
Mức hình phạt điều 134 tội cố ý gây thương tích BLHS năm 2015
Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 134 Bộ Luật hình sự: Quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm mà tỷ lệ tổn thương cơ thể nạn nhân từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp phạm tội từ điểm a đến điểm k như phân tích trên.
Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 134 Bộ Luật hình sự: Quy định hình phạt từ từ 02 năm đến 06 năm thuộc một trong những trường hợp quy định từ điểm a đến điểm đ khoản 2 Điều này.
Mức hình phạt tại khoản 3 Điều 134 Bộ Luật hình sự: Quy định phạt tù từ 05 năm đến 10 năm khi phạm tội một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm d khoản 3 Điều này.
Mức hình phạt tại khoản 4 Điều 134 Bộ Luật hình sự: Quy định phạt tù từ 07 năm đến 17 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm đ khoản 4 Điều này.
Mức hình phạt tại khoản 5 Điều 134 Bộ Luật hình sự: Quy định phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
Làm chết 02 người trở lên;
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
Trong các tình tiết tăng nặng cần lưu ý:
Để xác định mức độ gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác và có phải thuộc vùng mặt hay không căn cứ vào kết quả giám định pháp y thương tích. Căn cứ để đánh giá mức độ thương tích là kết quả giám định pháp y theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/08/2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám pháp y tâm thần (trước là Thông tư 20/2014/TT-BYT).
Phạm tội dẫn đến chết người là trường hợp ý thức chủ quan của người phạm tội chỉ muốn gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của nạn nhân nhưng không may nạn nhân chết, việc nạn nhân chết là người ý muốn của người phạm tội.
Phải xác định vì bị thương nặng nên nạn nhân chết chứ không phải nguyên nhân nào khác, ở đây cần phải làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả chết người với những thương tích của nạn nhân do người phạm tội gây ra.
Mức hình phạt tại khoản 6 Điều 134 Bộ Luật hình sự: Quy định phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với người chuẩn bị phạm tội này.
Chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, axit nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Người phạm tội còn có thể bị xem xét về tội liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép vũ khí, vật liệu nổ (theo Điều 304, 305, 306).
Thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 134 tội cố ý gây thương tích BLHS năm 2015
Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:
Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Trên đây là một số nội dung Điều 134 BLHS nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.