Tội bức tử là gì? Cấu thành Tội bức tử

Tội bức tử là gì? Cấu thành Tội bức tử

Căn cứ pháp lý

Tội bức tử được quy định tại Điều 30 BLHS năm 2015

Tội bức tử là gì?

Tội bức tử là gì? Cấu thành Tội bức tử
Tội bức tử là gì? Cấu thành Tội bức tử

Tội bức tử là làm người khác phải tự sát do đã có hành vi có lỗi đối với họ. Bức tử là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng của người khác, luật hình sự Việt Nam luôn coi hành vi này là tội phạm.

Nạn nhân ở tội bức tử phải là người bị lệ thuộc vào kẻ phạm tội trong những quan hệ xã hội nhất định như quan hệ gia đình, quan hệ nuôi dưỡng… Người phạm tội đã lợi dụng quan hệ lệ thuộc này để có những hành vi xâm phạm sức khoẻ, xúc phạm nhân phẩm; danh dự của nạn nhân. Đó có thể là hành vi đánh đập, bỏ đói, bỏ rét; đối xử bất công, đối xử tồi tệ trái với luân lí, đạo đức; hoặc là hành vi làm tổn hại nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự… Những hành vi này là nguyên nhân dẫn đến việc nạn nhân phải quyết định tự sát; và đã thực hiện việc tự sát nhưng không đòi hỏi nạn nhân có chết hay không.

Cấu thành Tội bức tử

Mặt chủ thể

Chủ thể của tội này được xác định trong cấu thành tội phạm là người có quan hệ lệ thuộc nhất định với nạn nhân là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự. Ngoài ra chủ thể này còn là người mà lại nhân có mối quan hệ lệ thuộc nhất định (có thể coi là chủ thể đặc biệt). Trong đó, nạn nhân là người bị lệ thuộc vào người phạm tội như lệ thuộc về kinh tế; bị ràng buộc về quan hệ hôn nhân, gia đình, quan hệ công tác hay quan hệ tín ngưỡng…

Trong cấu thành tội phạm là .lỗi cố ý, còn đối với hậu quả tự sát, lỗi đuợc thừa nhận là lỗi cố ý gián tiếp hoặc là lỗi vô ý. Trường hợp có lỗi cố ý gián tiếp là trường hợp người phạm tội thấy trước hành vi của mình cỏ thể dẫn đến việc tự sát của nạn nhân; tuy không mong muốn việc đó nhưng có ý thức bỏ mặc; chấp nhận việc đó (nếu xảy ra). Trái lại, trường hợp có lỗi vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể dẫn đến việc tự sát của nạn nhân nhưng đã quá tin rằng việc đó sẽ không xảy ra.

Nếu người phạm tội mong muốn nạn nhân tự sát khi thực hiện hành vi phạm tội của mình thì hành vi của họ không còn là bức tử mà là hành vi giết người (Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) với thủ đoạn đặc biệt.

Mặt khách quan

– Về hành vi:

Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi đối xử tàn ác; thường xuyên ức hiếp, ngược đãi; hoặc làm nhục người lệ thuộc mình.

Đối xử tàn ác với nạn nhân đối với người lệ thuộc là đối xử một cách độc ác, tàn bạo, gây đau đớn về thể xác; hoặc tinh thần cho nạn nhân như: đánh đập, bỏ đói, bỏ rét…

Thường xuyên ức hiếp, ngược đãi người lệ thuộc là thường xuyên cậy quyền, cậy thế đối xử bất công với người lệ thuộc. Ví dụ: thường xuyên bỏ đói, bỏ rét, gây ra sự uất ức, bế tắc cho người bị lệ thuộc.

Hành vi làm nhục: là hành vi xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người lệ thuộc. Ví dụ: mắng nhiếc, chửi rủa, mạt sát… gây tổn thương nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của người đó.

Cần lưu ý, hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi; hoặc làm nhục người lệ thuộc mình… đã là một bộ phận cấu thành tội phạm bức tử; nên người thực hiện hành vi không bị xử lý thêm về tội phạm khác nữa (Điều 140. Tội hành hạ người khác; Điều 155. Tội làm nhục người khác)

Hậu quả của tội bức tử là hành vi tự sát của nạn nhân. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm người lệ thuộc vào người phạm tội có hành vi tự sát; không phụ thuộc vào việc người tự sát có chết hay không.

– Về mặt hậu quả: Làm cho người bị hại tự sát.

Việc người bị hại tự sát mà chết; hoặc không chết không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này.

Mặt chủ quan

Người thực hiện hành vi do lỗi cố ý gián tiếp hoặc do lỗi vô ý.

+ Lỗi cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có thể khiến cho người bị hại tự sát;, thấy trước hậu quả là người bị hại sẽ tự sát của hành vi đó có thể xảy ra; tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.

+ Lỗi vô ý:

Lỗi vô ý do quá tự tin: Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể khiến cho người bị hại tự sát; nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.

Lỗi vô ý do quá cẩu thả: Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể khiến cho người bị hại tự sát; mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

Mặt khách thể

Tội phạm xâm phạm đến mối quan hệ liên quan đến sức khỏe, tính mạng của con người được pháp luật hình sự bảo vệ, quyền được sống của con người được pháp luật bảo vệ.

Người nào bị coi là phạm Tội bức tử?

Đối xử tàn ác với nạn nhân: Người phạm tội đã có hành vi đối xử một cách tàn nhẫn; có hành động gây đau khổ cho người lệ thuộc mình. Sự đau khổ của nạn nhân có thể là sự đau khổ về thể xác; hoặc sự đau khổ về tinh thần như: bị đánh đập, bị bỏ đói, bị bỏ rét, bắt làm việc nặng nhọc; không cho học hành, vui chơi…Hành vi này không chỉ bị pháp luật cấm mà dư luận xã hội cũng lên án.

Thường xuyên ức hiếp nạn nhân: Là hành vi dựa vào quyền hành; sức mạnh, tiền tài để đè nén; buộc người lệ thuộc chính mình phải chịu đựng điều bất công phi lý như: bị đánh mà không được kêu khóc; hai người đều có lỗi như nhau nhưng chỉ phạt một người; cùng có kết quả lao động như nhau nhưng người này được trả công ít hơn người kia v.v…Hành vi ức hiếp phải xảy ra thường xuyên thì mới coi là tội phạm. Nếu chỉ xảy ra một vài lần thì chưa coi là hành vi bức tử

Ngược đãi đối với nạn nhân: Là hành vi đối xử một cách tàn nhẫn, trái với lẽ phải; với đạo đức giữa con cái đối với bố mẹ, giữa các cháu với ông bà, giữa vợ chồng với nhau v.v…

Làm nhục nạn nhân: Người phạm tội đã có hành vi làm tổn thương đến nhân phẩm danh dự người lệ thuộc mình bằng lời nói hoặc hành động

Tội bức tử người khác bị xử lý như thế nào?

Căn cứ theo quy định tại Điều 130 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 về Tội bức tử thì:

“Điều 130. Tội bức tử

  1. Người nào đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự sát, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
  2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
  3. a) Đối với 02 người trở lên;
  4. b) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai.”

Như vậy, mức hình phạt đối với tội này được chia thành hai khung, cụ thể như sau:

– Khung một (khoản 1):

Có mức phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này nêu ở mặt khách quan.

– Khung hai (khoản 2):

Có mức phạt tù từ năm năm đến mười hai năm. Được áp dụng đối với các trường hợp: phạm tội đối với 02 người trở lên; phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai

Câu hỏi thường gặp về tội bức tử

Đối với Tội bức tử, tội phạm hoàn thành khi nào?

Chỉ cần nạn nhân có hành vi tự sát là tội phạm hoàn thành, còn việc nạn nhân chết hay được cữu sống chỉ có ý nghĩa xem xét khi quyết định hình phạt. Tuy nhiên, đối với trường hợp nạn nhân không bị chết, tùy thuộc vào từng trường hợp mà có thể bị truy tố hoặc không truy tố người có hành vi bức tử

Nhờ người khác giúp tự sát có phải Tội bức tử không?

Nạn nhân, bằng nhiều phương pháp khác nhau, đã tự mình thực hiện việc tước đoạt tính mạng của chính mình. Nếu nạn nhân tuy muốn chết nhưng lại không thực hiện hành vi tự tước đoạt tính mạng của mình mà nhờ người khác giúp thì không phải là tự sát và người có hành vi ngược đãi không bị truy cứu trách nhiệm về tội bức tử.

Người tự sát bắt buộc phải là người lệ thuộc vào người phạm tội?

rên đây là một số nội dung Điều 130 blhs năm 2015, nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.

 

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139