Nhiều người cho rằng, việc sử dụng, tiêu thụ tài sản không phải do mình ăn trộm thì không bị xử lý. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, hành vi tiêu thụ tài sản ăn trộm có thể bị phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Thông qua bài viết dưới đây, Luật Trần và Liên Danh sẽ giải thích và giới thiệu cho quý bạn đọc:
Hành vi tiêu thụ tài sản ăn trộm
Tài sản ăn trộm là tài sản do người phạm tội có được trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: tài sản chiếm đoạt được, tham ô, nhận hối lộ…) hoặc do người phạm tội có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ việc họ thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: xe máy có được từ việc dùng tiền tham ô để mua).
Tài sản bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản; bất động sản, động sản, hoa lợi, lợi tức, vật chính, vật phụ, vật chia được, vật không chia được, vật tiêu hao, vật không tiêu hao, vật cùng loại, vật đặc định, vật đồng bộ và quyền tài sản.
Khi đã có tài sản ăn trộm trong tay, người phạm tội sử dụng chúng nhằm mục đích kiếm lời.
Phân tích tội tiêu thụ tài sản ăn trộm
Điều 323 của BLHS năm 2015 quy định về Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, theo đó: “Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…..”
So với BLHS năm 1999 quy định của BLHS năm 2015 có một số điểm mới như tăng gấp đôi mức phạt tiền; nâng mức phạt tù tối thiểu tại các khoản 2, khoản 3, khoản 4; đồng thời quy định cụ thể giá trị bằng tiền tài sản, vật phạm pháp, thu lợi bất chính; tăng mức hình bổ sung phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng lên mức 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Về hành vi khách quan, Điều 323 là tội ghép quy định 2 hành vi khách quan: Chứa chấp tài sản và Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Theo đó hành vi chứa chấp tài sản được thể hiện ở các hành vi như: Nhận cất giữ, cất giấu, bảo quản hoặc cho để nhờ, cho thuê địa điểm để cất giữ, cất giấu, bảo quản… tài sản cho người khác mà mình biết rõ tài sản này là do người khác phạm tội mà có.
Ví dụ: Một người quen gửi một chiếc xe gắn máy và biết rõ đây là xe lấy trộm được và người này đã đồng ý giữ hộ mà không báo với cơ quan có thẩm quyền.
Hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thể hiện ở các hành vi như: Chuyển dịch quyền sở hữu như mua, bán, trao đổi, cho, tặng, sử dụng… tài sản cho người khác mà mình biết rõ tài sản này là do người đó phạm tội mà có.
Ví dụ: Bán hộ một người bạn một chiếc xe gắn máy dù biết rõ là xe này là do người bạn trộm cắp mà có.
Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Về mặt chủ quan của tội phạm, người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý; có nghĩa người phạm tội phải biết rõ đó là tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng vẫn chứa chấp hoặc tiêu thụ. Trường hợp người chứa chấp hoặc tiêu thụ không thể biết được tài sản đó là do người khác phạm tội mà có thì không phạm tội này.
Việc người phạm tội phải “Biết rõ” tài sản là do người khác phạm tội mà có” được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30 tháng 11 năm 2011 (sau đây gọi tắt là Thông tư 09), theo đó: “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có” là có căn cứ chứng minh biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội.”.
Ngoài ra, cũng theo Thông tư 09 xác định “Tài sản do người khác phạm tội mà có” là tài sản do người phạm tội có được trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: Tài sản chiếm đoạt được, tham ô, nhận hối lộ…) hoặc do người phạm tội có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ việc họ thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: Xe máy có được từ việc dùng tiền tham ô để mua).
Như vậy, từ những vấn đề phân tích nêu trên chúng ta thấy, tội “Chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” có một số đặc trưng sau:
Một là, về thời điểm nhận chứa chấp, tiêu thụ; người chứa chấp, tiêu thụ không có sự hứa hẹn trước với người giao tài sản là sẽ chứa chấp hoặc sẽ tiêu thụ tài sản; có nghĩa người nhận chứa chấp, tiêu thụ tài sản sau khi hành vi phạm tội của ngươi có tài sản đem chứa chấp, tiên thụ đã hoàn thành. Bởi vì, nếu hứa hẹn trước thì người chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản không phạm tội này mà đồng phạm với hành vi phạm tội của người có tài sản đem chứa chấp, tiêu thụ với vai trò là người giúp sức.
Hai là, về nhận thức, người chứa chấp hoặc tiêu thụ phải biết rõ tài sản đó do người khác phạm tội mà có được.
Tiêu thụ tài sản ăn trộm bị phạt tù khi nào?
Điều 323 của BLHS năm 2015 quy định về Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, theo đó: “Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…..”
Người tiêu thụ tài sản và người phạm tội nếu có sự hứa hẹn trước về việc tiêu thụ tài sản phạm tội thì người tiêu thụ là đồng phạm Tội trộm cắp tài sản.
Theo đó, người trộm cắp tài sản bị coi là phạm tội khi tài sản trộm cắp có trị giá từ 02 triệu đồng trở lên hoặc dưới 02 triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp:
– Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
– Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội sau mà chưa bị xóa án tích: tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản,…
– Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
– Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
– Tài sản là di vật, cổ vật.
Theo Điều 323, người tiêu thụ tài sản trộm cắp có thể bị phạt tiền từ 10 – 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Phạm tội có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 100 đến dưới 300 triệu đồng; thu lợi bất chính từ 20 đến dưới 100 triệu đồng; tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
Nếu phạm tội mà tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 300 triệu đến dưới 01 tỷ đồng hoặc thu lợi bất chính từ 100 triệu đến dưới 300 triệu đồng thì bị phạt tù từ 07 năm đến 10 năm
Nặng nhất, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm khi tài sản, vật phạm pháp trị giá 01 tỷ đồng trở lên hoặc thu lợi bất chính 300 triệu đồng trở lên.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 05 – 50 triệu đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Phạt hành chính với hành vi tiêu thụ tài sản ăn trộm
Nếu người trộm cắp thực hiện lần đầu và tài sản trộm cắp giá trị dưới 02 triệu đồng thì người tiêu thụ tài sản trộm cắp bị phạt hành chính.
Mức phạt hành chính với hành vi tiêu thụ tài sản trộm cắp được quy định tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP cụ thể như sau:
– Mua, bán, cất giữ hoặc sử dụng tài sản của người khác mà biết rõ tài sản đó do vi phạm pháp luật mà có thì bị phạt tiền từ 02 – 05 triệu đồng (theo điểm đ khoản 2 Điều 15);
– Cầm cố tài sản do trộm cắp do người khác phạm tội mà có thì bị phạt tiền từ 20 – 30 triệu đồng (theo điểm b khoản 4 Điều 11).
Tóm lại, hành vi tiêu thụ tài sản ăn trộm có thể bị phạt hành chính đến 30 triệu đồng, phạt tù đến 15 năm khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Những vướng mắc trong thực tiễn
Từ những nội dung nêu trên trong thực tế áp dụng pháp luật để xử lý tội phạm này hiện có một số vấn đề còn nhiều quan điểm khác nhau:
Thứ nhất, người có được tài sản chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì người chứa chấp, tiêu thụ tài sản có phải chịu trách nhiệm trách nhiệm hình sự không ?
Ví dụ: Ngày 16/9/2019 Nguyễn Văn A (sinh năm 2005-chưa đủ 16 tuổi) đã lẻn vào cửa hàng bán điện thoại di động trộm 1 chiếc điện thoại trị giá 4 triệu đồng, sau đó bán cho B với giá 2 triệu đồng, B biết rõ chiếc điện thoại này là tài sản trộm cắp nhưng vẫn đồng ý mua. Sau đó A và B bị công an bắt, chiếc điện thoại được Hội đồng định giá tài sản định giá 3 triệu đồng. Sau khi vụ án xảy ra có nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến hành vi của B.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: B phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 của BLHS năm 2015 vì điều luật quy định hành vi không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có. Trong trường hợp nêu trên B biết rõ chiếc điện thoại A có được là do trộm cắp; hơn nữa tài sản có giá trị 3 triệu nên B đã tiêu thụ tài sản do A phạm tội; do vậy việc B phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tiêu thụ là phù hợp, tránh bỏ lọt tội phạm.
Quan điểm thứ hai cho rằng: B không phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, vì hành vi của Nguyễn Văn A không đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này; tài sản A có được đem tiêu thụ cho B chỉ là hành vi vi phạm pháp luật hành chính mà không phải là hành vi phạm tội; trong khi điều luật xác định tài sản tiêu thụ phải là tài sản có được do hành vi “phạm tội” mà có; điều đó có nghĩa để truy cứu trách nhiệm hình sự của B thì A cũng phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội để có được tài sản. Do vậy hành vi của B không cấu thành tội phạm mà chỉ là vi phạm hành chính nên B chỉ bị truy cứu trách nhiệm hành chính.
Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất: B phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 BLHS. Vì điều luật quy định hành vi không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có. Trong trường hợp nêu trên mặc dù A chưa đến tuổi truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng hành vi khách quan và giá trị tài sản A chiếm đoạt đã thỏa mãn hành vi khách quan của tội phạm; việc A không bị xử lý hình sự là do chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với người phạm tội là người chưa đủ 16 tuổi. Tài sản do B tiêu thụ đã thỏa mãn điều kiện về giá trị tài sản của tội trộm cắp tài sản và thực tế B đã tiêu thụ tài sản do A phạm tội nên hành vi của B đã cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Ngoài ra, chúng tôi cho rằng, nguyên nhân dẫn đến việc hiểu không đúng quy định của luật và có nhiều quan điểm khác nhau trong ví dụ nêu trên có lẽ do nhiều người hiểu sai thuật ngữ “thực hiện tội phạm” và “ thực hiện phạm tội”; đây có thể do lỗi kỹ thuật của nhà làm luật. Nhưng về bản chất người có tài sản bất hợp pháp đem đi chứa chấp, tiêu thụ đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và được BLHS quy định, còn việc họ có bị xử lý hay không hoặc xử lý như thế nào thì không phải là điều kiện bắt buộc để xem xét trách nhiệm của người chứa chấp, tiêu thụ tài sản.
Thứ hai, người có được tài sản được miễn trách nhiệm hình sự thì người chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản đó có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
Quan điểm thứ nhất: Cho rằng trường hợp này người chứa chấp hoặc tiêu thụ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
Quan điểm thứ hai: Cho rằng trường hợp này người có được tài sản được miễn trách nhiệm hình sự nên người chứa chấp hoặc tiêu thụ không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Chúng tôi cho rằng tùy từng trường hợp mà người chứa chấp, tiêu thụ có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không. Cụ thể, trường hợp người đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 1 Điều 29 của BLHS do có sự thay đổi về chính sách pháp luật, làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm nữa (tức là hành vi của người có được tài sản không còn là tội phạm được quy định trong BLHS) thì người chứa chấp, tiêu thụ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Riêng đối với trường hợp miễn trách nhiệm hình sự do được đại xá theo điểm b khoản 1 hoặc miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 Điều 29 của BLHS thì đây là chính sách nhân đạo pháp luật đối với người phạm tội. Việc miễn này chỉ trong trường hợp đặc biệt của đất nước, hoặc có đủ điều kiện nhưng về bản chất sau khi đại xá, hoặc miễn trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng đối với cá nhân người phạm tội; trong khi các tội phạm mà họ đã thực hiện trước đó vẫn được quy định trong BLHS, nên người chứa chấp, tiêu thụ tài sản do những người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự nêu trên vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự; vì hành vi của họ là nguy hiểm cho xã hội.
Thứ ba, có cần xác định giá trị tài sản chứa chấp, tiêu thụ hay không?
Cũng ví dụ trên, trong trường hợp A là người đã thành niên (là người trên 18 tuổi, không có tiền án, tiền sự, có nhân thân tốt); giả sử Hội đồng định giá chiếc điện thoại mà A chiếm đoạt được trị giá 1,5 triệu đồng thì B có phạm tội không?
Có quan điểm cho rằng: B không phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, vì theo quy định khoản 1 Điều 173 BLHS quy định: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”. Như vậy hành vi của A không đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” vì tài sản A chiếm đoạt được dưới 2 triệu đồng và không thuộc các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm d khoản 1 Điều 173 BLHS.
Theo quan điểm của chúng tôi, không cần phải xác định giá trị tài sản chứa chấp, bởi lẽ: Vì theo cấu thành tội phạm của tội “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” thì người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản buộc phải biết rõ tài sản đó do người khác phạm tội mà có, mà không buộc người tiêu thụ, chứa chấp phải biết rõ tài sản đó có giá trị thực tế như thế nào và họ đã bị xử lý hình sự hay chưa; mà chỉ cần người đó có ý thức chủ quan biết rõ tài sản mà mình chứa chấp hoặc tiêu thụ là tài sản do người khác phạm tội mà có là đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội quy định tại Điều 323 BLHS.
Thứ tư, người tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có bắt buộc phải biết rõ đối tượng phạm tội có được tài sản không?
Trong thực tiễn đã xảy ra trường hợp khi có đủ căn cứ chứng minh ý thức chủ quan của các bị can nhận thức rõ, biết rõ tài sản chứa chấp là do người khác phạm tội mà có nhưng không xét xử được với lý do: Chưa xác định được đối tượng trộm cắp tài sản, chưa biết có đủ cơ sở để truy cứu TNHS đối tượng này về trộm cắp tài sản hay không (do độ tuổi và năng lực chịu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự của họ chưa làm rõ), nên tài sản tiêu thụ đó có phải do phạm tội mà có hay không cũng chưa xác định.
Theo chúng tôi cấu thành cơ bản của tội phạm này về ý thức chủ quan thì chỉ bắt buộc người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản phải biết rõ tài sản đó do người khác phạm tội mà có, mà không buộc người tiêu thụ, chứa chấp phải biết rõ ai là người đã trực tiếp hành vi phạm tội để có được tài sản đó và họ đã bị xử lý hình sự hay chưa và xử lý như thế nào. Do đó, nếu có căn cứ chứng cứ chứng minh họ không hứa hẹn trước và ý thức chủ quan của họ biết rõ tài sản mà họ chứa chấp, tiêu thụ do người khác phạm tội mà có thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi cho rằng cần sớm sửa đổi Điều 323 của BLHS để tránh dẫn đến hiểu sai quy định của pháp luật. Cần sửa đổi, bổ sung cụm từ “thực hiện tội phạm” vào tên và nội dung của điều luật, cụ thể: “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác thực hiện tội phạm mà có”; “1. Người nào … do người khác thực hiện tội phạm mà có”. Mặt khác, cơ quan có thẩm quyền cần thiết phải ban hành hướng dẫn mới thay thế Thông tư số 09/2011; đồng thời hướng dẫn thống nhất áp dụng những vấn đề còn bất cập nêu trên.
Trên đây là một số quy định về tiêu thụ tài sản ăn trộm theo quy định của pháp luật mà Luật Trần và Liên Danh giới thiệu đến quý bạn đọc, nếu có thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ nhanh nhất.