Di sản văn hóa là một trong những yếu tố góp phần làm đa dạng, phong phú nét đẹp văn hóa của nhân loại. Bài viết dưới đây Luật Trần và Liên Danh sẽ làm rõ khái niệm về di sản văn hóa thế nào là di sản văn hóa? cũng như giá trị mà di sản văn hóa mang lại.
Thế nào là di sản văn hoá?
Theo Điều 1 Luật Di sản văn hoá 2001 thì di sản văn hoá là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Phân loại đối với di sản văn hoá
Theo Điều 1 Luật Di sản văn hoá 2001 và Điều 2 Nghị định 98/2010/NĐ-CP thì di sản văn hoá gồm 02 loại như sau:
Di sản văn hoá phi vật thể
– Theo khoản 1 Điều 4 Luật Di sản văn hoá 2001 (sửa đổi 2009) thì di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,
Thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác.
– Di sản văn hoá phi vật thể bao gồm:
+ Tiếng nói, chữ viết;
+ Ngữ văn dân gian;
+ Nghệ thuật trình diễn dân gian;
+ Tập quán xã hội và tín ngưỡng;
+ Lễ hội truyền thống;
+ Nghề thủ công truyền thống;
+ Tri thức dân gian.
Di sản văn hoá vật thể
– Theo khoản 2 Điều 4 Luật Di sản văn hoá 2001 thì di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, bao gồm di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
– Di sản văn hoá vật thể bao gồm:
+ Di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh;
+ Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Mục đích sử dụng của di sản văn hoá
Theo Điều 12 Luật Di sản văn hoá 2001 thì di sản văn hoá được sử dụng nhằm mục đích:
– Phát huy giá trị di sản văn hoá vì lợi ích của toàn xã hội;
– Phát huy truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam;
– Góp phần sáng tạo những giá trị văn hoá mới, làm giàu kho tàng di sản văn hoá Việt Nam và mở rộng giao lưu văn hoá quốc tế.
Những hành vi bị nghiêm cấm đối với di sản văn hoá
Theo Điều 13 Luật Di sản văn hoá 2001 (sửa đổi 2009) quy định những hành vi bị nghiêm cấm đối với di sản văn hoá như sau:
– Chiếm đoạt, làm sai lệch di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh;
– Huỷ hoại hoặc gây nguy cơ huỷ hoại di sản văn hoá;
– Đào bới trái phép địa điểm khảo cổ; xây dựng trái phép, lấn chiếm đất đai thuộc di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh;
– Mua bán, trao đổi, vận chuyển trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh và di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia có nguồn gốc bất hợp pháp; đưa trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ra nước ngoài.
– Lợi dụng việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa để trục lợi, hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện những hành vi khác trái pháp luật.
Quy định về quyền và nghĩa vụ đối với di sản văn hoá
Quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức đối với di sản văn hoá
Theo Điều 14 Luật Di sản văn hoá 2001 quy định về quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức đối với di sản văn hoá như sau:
– Sở hữu hợp pháp di sản văn hoá;
– Tham quan, nghiên cứu di sản văn hoá;
– Tôn trọng, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;
– Thông báo kịp thời địa điểm phát hiện di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh; giao nộp di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia do mình tìm được cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi gần nhất;
– Ngăn chặn hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ngăn chặn, xử lý kịp thời những hành vi phá hoại, chiếm đoạt, sử dụng trái phép di sản văn hoá.
Quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu di sản văn hoá
Theo Điều 15 Luật Di sản văn hoá 2001 quy định về quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu di sản văn hoá như sau:
– Có các quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức tại mục 5.1;
– Thực hiện các biện pháp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá; thông báo kịp thời cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp di sản văn hoá có nguy cơ bị làm sai lệch giá trị, bị huỷ hoại, bị mất;
– Gửi sưu tập di sản văn hoá phi vật thể, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia vào bảo tàng nhà nước hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp không đủ điều kiện và khả năng bảo vệ và phát huy giá trị;
– Tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tham quan, du lịch, nghiên cứu di sản văn hoá;
– Thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức trực tiếp quản lý di sản văn hoá
Theo Điều 16 Luật Di sản văn hoá 2001 quy định về quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức trực tiếp quản lý di sản văn hoá như sau:
– Bảo vệ, giữ gìn di sản văn hoá;
– Thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm hại di sản văn hoá;
– Thông báo kịp thời cho chủ sở hữu hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi gần nhất khi di sản văn hoá bị mất hoặc có nguy cơ bị huỷ hoại;
– Tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tham quan, du lịch, nghiên cứu di sản văn hoá;
– Thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Giá trị của di sản văn hóa
Di sản văn hóa có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội và cộng đồng, tạo động lực, nguồn lực thúc đẩy phát triển ngành du lịch, đem đến lợi ích kinh tế và quảng bá hình ảnh của địa phương, đất nước trong quá trình hội nhập và phát triển.
Di sản văn hóa là nơi lưu giữ nét đẹp văn hóa truyền thống của thế hệ cha ông, tạo tiền để để các thế hệ sau lưu giữ, tái tạo và phát triển. Bên cạnh đó, đây còn là nền tảng để chúng ta tiếp cận với những nền văn hóa trên toàn thế giới mà không bị mất đi bản sắc dân tộc, hòa nhập nhưng không hòa tan.
Di sản văn hóa tham gia và thể hiện sự đang dạng của văn hóa thế giới nói chung, góp phần làm phong phú nền văn hóa dân tộc nói riêng. Di sản văn hóa luôn có sự đa dạng sinh thái, đa dạng tộc người và đa dạng cách biểu đạt văn hóa. Sự đa dạng ấy làm nên sức sống và sự giàu có cho văn hóa nhân loại.
Di sản văn hóa là động lực để phát triển ngành công nghiệp không khói (ngành du lịch)
Hệ thống di sản văn hóa trải khắp đất nước chính là nguồn lực to lớn cho công cuộc xây dựng đất nước thông qua phát triển du lịch. Di sản văn hóa đã góp phần tạo nên nhiều sản phẩm du lịch đặc trưng cho du lịch Việt Nam; kết nối và đa dạng hóa các tuyến du lịch xuyên vùng và quốc tế.
Một trong những di sản nổi tiếng thế giới của Việt Nam là vịnh Hạ Long, đây là di sản được UNESCO ghi danh vào danh mục Di sản Thiên nhiên thế giới bởi giá trị đặc biệt về địa chất – địa mạo, giá trị đa dạng sinh học, giá trị văn hóa – lịch sử,…. Không chỉ vậy, vịnh Hạ Long còn được bầu chọn là một trong 7 kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới. Với những điều kiện tự nhiên ưu đãi và những danh hiệu của mình, ngày nay, vịnh Hạ Long đã trở thành trung tâm du lịch thu hút lượng khách đông đảo hàng đầu tại nước ta.
Sức hấp dẫn của di sản văn hóa đã tạo động lực cho phát triển du lịch mang lại nhiều lợi ích về thu nhập, việc làm và phát triển kinh tế-xã hội địa phương. Tính đến năm 2020, cả nước có 28 di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được UNESCO ghi danh, trở thành tài sản chung của văn hóa nhân loại. Không chỉ vậy, nó còn có 301 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, 3.500 di tích quốc gia, 122 di tích quốc gia đặc biệt.
Một số giải pháp phát huy vai trò của di sản văn hóa
Di sản văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế – xã hội, sử dụng di sản văn hóa như nguồn lực trong phát triển, tạo nên một xã hội phát triển hài hòa, nhân văn và mang đậm bản sắc. Chính vì vậy, chúng ta cần một số giải pháp để phát huy giá trị của di sản văn hóa:
Tôn trọng, bảo vệ và phát huy giá trị, tính đa dạng của di sản văn hóa.
Giảm thiểu vấn đề thương mại hóa, sân khấu hóa di sản. Trong việc trình diễn di sản, cần cân nhắc kỹ lưỡng và cân đối hài hòa giữa nhu cầu thị trường và giá trị của di sản.
Xây dựng chiến lược truyền thông sâu rộng về di sản văn hóa và phát triển.
Pháp luật Việt Nam đối với bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
Di sản văn hóa được xem là kết tinh những giá trị vật chất, tinh thần được truyền từ đời này sang đời khác. Vì vậy việc bảo tồn các di sản là điều quan trọng và cần thiết. Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam, hệ thống pháp luật qua các thời kỳ đều đề cập đến yêu cầu bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá trị của các di tích lịch sử, di sản văn hóa, nghệ thuật, danh lam thắng cảnh của đất nước.
Ngày 23/11/1945, chỉ hơn 2 tháng sau khi nước nhà giành được độc llập, dù còn bộn bề các công việc cấp bách cần giải quyết, nhưng với tầm nhìn minh triết, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65/SL về bảo tồn cổ tích trên toàn đất nước Việt Nam. Với ý nghĩa lịch sử to lớn này, ngày 24/2/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 36/QĐ-TTg lấy ngày 23 tháng 11 hàng năm là ngày Di sản văn hóa Việt Nam nhằm phát huy truyền thống và ý thức trách nhiệm của tổ chức, các nhân hoạt động trên lĩnh vực di sản văn hóa, đồng thời khuyến khích mọi người tham gia tích cực vào sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.
Năm 2001, Luật Di sản văn hóa ra đời và được sửa đổi, bổ sung năm 2009 – điều chỉnh về cả di sản văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể.
Trên đây là tất cả thông tin được cung cấp bởi công ty luật Trần và Liên Danh về thắc mắc thế nào là di sản văn hóa? Nếu quý vị có bất kỳ câu hỏi nào hoặc cần hỗ trợ về các vấn đề pháp lý khác, xin vui lòng liên hệ với chúng tôi qua bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua số hotline. Chúng tôi sẽ nhanh chóng hỗ trợ và trả lời mọi thắc mắc của quý vị.